Án treo và những vấn đề cần biết về án treo
Xuất phát từ các chế tài trong hình sự và với mục đích răn đe, giáo dục, cải tạo người phạm tội hoàn lương để trở thành người có ích cho xã hội, Nhà nước ta đã ban hành chế định về án treo để thể hiện sự khoan hồng và nhân đạo của pháp luật. Chế định về án treo được ra đời khá sớm trong lịch sử lập pháp trong lĩnh vực hình sự. Ngày 14/02/1946, Sắc lệnh số 21/SL về tổ chức các Tòa án quân sự do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành đã có quy định về việc cho hưởng án treo thể hiện sự khoan hồng của Nhà nước và chế định này được quy định chính thức đầu tiên tại Bộ luật Hình sự năm 1985, đến nay án treo được quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Không chỉ vậy, án treo còn được hướng dẫn, điều chỉnh cụ thể bởi hai Nghị quyết số 02/2018/NQ – HĐTP và Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP. Vậy pháp luật quy định cụ thể như thế nào về án treo?
- Án treo là gì?
Căn cứ Điều 1 Nghị quyết số 02/2018/NQ – HĐTP, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù.
Án treo là một chế định tiến bộ thể hiện cụ thể phương châm “Trừng trị kết hợp với giáo dục” và tính nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Là một biện pháp giáo dục, án treo khuyến khích người bị kết án tự nguyện lao động cải tạo với sự giúp đỡ tích cực của xã hội. Chế định này không buộc người bị kết án cách ly khỏi xã hội, họ vẫn được làm ăn sinh sống và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường dưới sự giám sát theo dõi, giáo dục của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc UBND cấp xã nơi người được hưởng án treo làm việc, công tác, học tập hoặc cư trú và gia đình của người đó.
- Điều kiện hưởng án treo
Về điều kiện hưởng án treo, Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự. Điều kiện này được cụ thể hóa và chi tiết tại Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ – HĐTP và khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 01/2022/NQ – HĐTP. Cụ thể, người bị xử phạt tù có thể được xem xét cho hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, bị xử phạt tù không quá 03 năm. Nếu người bị kết án bị tuyên phạt một trong những hình phạt chính khác như phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc bị phạt tù trên 3 năm thì không được xem xét cho hưởng án treo. Đối với người bị xử phạt tù đã bị tạm giam thì chỉ cho hưởng án treo khi thời gian bị tạm giam ngắn hơn thời hạn phạt tù 3 năm.
Thứ hai, người bị xử phạt tù có nhân thân là ngoài lần phạm tội này, người phạm tội chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc. Có 3 trường hợp sau:
- Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà tính đến ngày phạm tội lần này đã quá thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.
- Đối với người bị kết án mà khi định tội đã sử dụng tình tiết “đã bị xử lý kỷ luật” hoặc “đã bị xử phạt vi phạm hành chính” hoặc “đã bị kết án” và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.
- Đối với người bị kết án mà vụ án được tách ra để giải quyết trong các giai đoạn khác nhau (tách thành nhiều vụ án) và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.
Thứ ba, có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Thứ tư, có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục. Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo. Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Thứ năm, xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Thứ sáu, khi xem xét, quyết định cho bị cáo hưởng án treo Tòa án phải xem xét thận trọng, chặt chẽ các điều kiện để bảo đảm việc cho hưởng án treo đúng quy định của pháp luật, đặc biệt là đối với các trường hợp hướng dẫn tại khoản 2, khoản 4 và khoản 5 Điều 3 về các trường hợp không được cho hưởng án treo.
- Các trường hợp không được hưởng án treo
Về các trường hợp không được hưởng án treo, Điều 3 Nghị quyết 02/2018/NQ – HĐTP và khoản 2 Điều 1 Nghị quyết 01/2022/NQ – HĐTP quy định chi tiết 6 trường hợp không được hưởng án treo, bao gồm: (1) Người phạm tội là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng; (2) Người thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn và đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng truy nã hoặc yêu cầu truy nã, trừ trường hợp đã ra đầu thú trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử; (3) Người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách; người đang được hưởng án treo bị xét xử về một tội phạm khác thực hiện trước khi được hưởng án treo; (4) Người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội; (5) Người phạm tội 02 lần trở lên, (6) Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm
Đối với người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội, khoản 2 Điều 1 Nghị quyết 01/2022/NQ – HĐTP đã để ngỏ một số trường hợp. Theo đó, nếu thuộc vào một trong các trường hợp sau, người phạm tội vẫn có thể được xem xét cho hưởng án treo: (1) Người phạm tội là người dưới 18 tuổi; (2) Người phạm tội bị xét xử và kết án về 02 tội đều là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể.
Tương tự như vậy, người phạm tội 02 lần trở lên cũng được được xem xét cho hưởng án treo nếu thuộc các trường hợp: (1) Người phạm tội là người dưới 18 tuổi; (2) Các lần phạm tội đều là tội phạm ít nghiêm trọng; (3) Các lần phạm tội, người phạm tội là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể; (4) Các lần phạm tội do người phạm tội tự thú.
- Trường hợp nào mà người được cho hưởng án treo vẫn có thể bị buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án?
Người được hưởng án treo có thể bị buộc phải chấp hành hình phạt tù nếu trong thời gian thử thách cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định. Trường hợp vi phạm được quy định tại khoản 5 Điều 1 Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP, đó là đang trong thời gian thử thách mà cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 87 Luật Thi hành án hình sự 2019 từ 02 lần trở lên. Theo Điều 4 Nghị quyết 02/2018/NQ – HĐTP quy định Tòa án phải ấn định thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt tù, nhưng không được dưới 01 năm và không được quá 05 năm. Do đó, trong thời gian thử thách từ 1 đến 5 năm, nếu người được cho hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 87 Luật Thi hành án hình sự 2019 từ 02 lần trở lên sẽ bị buộc phải chấp hành hình phạt từ theo bản án.
Vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên đối với trường hợp người được hưởng án treo bỏ đi khỏi nơi cư trú không xin phép được xác định như sau:
– Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo bỏ đi khỏi nơi cư trú không xin phép, cơ quan có thẩm quyền căn cứ Điều 87, Điều 91 và Điều 92 Luật Thi hành án hình sự 2019 lập biên bản vi phạm nghĩa vụ, nhắc nhở lần 01 và triệu tập người này để tiếp tục thi hành án nhưng họ vẫn không có mặt theo giấy triệu tập nên cơ quan có thẩm quyền tổ chức kiểm điểm vắng mặt và lập biên bản kiểm điểm vắng mặt. Trường hợp này được xác định là vi phạm nghĩa vụ lần 01.
– Căn cứ theo Điều 93 Luật Thi hành án hình sự 2019, cơ quan có thẩm quyền tiếp tục triệu tập người được hưởng án treo nhưng người này vẫn không có mặt nên bị lập biên bản nhắc nhở lần 02. Cơ quan có thẩm quyền tiếp tục triệu tập người được hưởng án treo nếu người này vẫn không có mặt thì lập biên bản xác nhận sự vắng mặt. Trường hợp này được coi là vi phạm nghĩa vụ lần 02.
- Thực tiễn áp dụng án treo và tình huống thực tế
Trong thực tiễn xét xử, Tòa án phải xem xét thận trọng, chặt chẽ các điều kiện để bảo đảm việc cho hưởng án treo là đúng quy định của pháp luật, tránh để xảy ra tiêu cực. Mặc dù án treo là một biện pháp thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật hình sự, nhưng trên thực tế, quá trình xem xét cho hưởng án treo vô cùng nghiêm ngặt, chặt chẽ. Bởi án treo giống như một con dao hai lưỡi, nếu áp dụng đúng đắn các quy định về án treo, sẽ có tác dụng tốt là không bắt người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội mà cũng đạt được mục đích giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội. Nhưng nếu áp dụng không đúng thì sẽ gây ảnh hưởng xấu về nhiều mặt như: không phát huy được tác dụng tích cực của án treo là khuyến khích người bị kết án tự cải tạo để trở thành người tốt, không thể hiện được tính công minh của pháp luật, không được nhân dân đồng tình ủng hộ, không đề cao được tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Những trường hợp được xem xét cho hưởng án treo phải được tuân theo trình tự, thủ tục chuẩn mực, phải được báo cáo để xem xét, đánh giá kỹ, tránh tiêu cực. Do đó, các thẩm phán thường rất thận trọng đối với các trường hợp này, tránh việc cho hưởng án treo không đúng, “làm phúc phải tội” mà dẫn đến bị khuyết điểm, thậm chí bị nghi ngờ có tiêu cực. Tuy nhiên, đôi khi sự thận trọng quá mức của các thẩm phán cũng có phần gây thiệt thòi cho những người bị kết án được xem xét hưởng án treo. Vì vậy, trên thực tế việc được cho hưởng án treo mang tính chất giống như một sự “ban phát”, “ưu ái” dành cho những người bị kết án.
Gần đây, Văn phòng Luật sư Đồng Đội nhận được một tình huống cần được tư vấn về việc xem xét cho hưởng án treo, cụ thể như sau:
K là nhân viên lái xe của công ty X nhận lệnh điều động của kế toán công ty thực hiện công việc vận chuyển vật liệu từ khu vực mỏ đá đến bãi tập kết của công trình thi công.
Ngày 21/8, K đến mỏ đá ký xác nhận và vận chuyển vật liệu đến bãi tập kết theo lệnh điều động. Sau khi đã chở xong chuyến đầu tiên, K thấy tại bãi tập kết không có ai kiểm tra và nhận vật liệu nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt vật liệu để mang bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Do đó, K cùng 2 người khác là H và T đã thống nhất với nhau và vận chuyển liên tiếp 9 xe chở vật liệu đi bán lấy tiền rồi phân chia số tiền bán được. Tổng giá trị của 9 chiếc xe vật liệu là 2.200.000 đồng.
Sáng ngày 22/8, K không nhận được lệnh điều động nên chỉ có H và T tiếp tục vận chuyển vật liệu của công ty đem bán lấy tiền. Tuy nhiên, H và T chưa kịp phân chia tiền thì đã bị phát hiện. Tổng giá trị vật liệu mà 3 người H, K, T đã vận chuyển đem bán để chia nhau tiêu xài cá nhân là khoảng 6 triệu. Và hiện nay, Tòa đã tuyên xử mức hình phạt đối với K là 27 tháng tù giam.
Xin hỏi luật sư, trường hợp của K có thể xin giảm án để được hưởng án treo hay không?
Trả lời: Đối với trường hợp của K, hiện nay Tòa đã tuyên xử với mức hình phạt là 27 tháng tù giam, tức 2 năm 3 tháng. Do đó, căn cứ theo khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ – HĐTP, trường hợp của K đã đáp ứng điều kiện đầu tiên để được hưởng án treo là hình phạt tù không quá 3 năm.
Như đã phân tích ở trên, để được xem xét cho hưởng án treo, ngoài điều kiện về thời hạn hình phạt tù, K cần phải chứng minh bản thân đã đáp ứng đủ các điều kiện còn lại là: (1) người bị xử phạt tù có nhân thân là ngoài lần phạm tội này, người phạm tội chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc; (2) có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; (3) có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục. (4) xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; (5) khi xem xét, quyết định cho bị cáo hưởng án treo Tòa án đã xem xét thận trọng, chặt chẽ các điều kiện để bảo đảm việc cho hưởng án treo đúng quy định của pháp luật, đặc biệt là đối với các trường hợp hướng dẫn tại khoản 2, khoản 4 và khoản 5 Điều 3 về các trường hợp không được cho hưởng án treo.
Phạm Hà Thu – 0827122116 – phamhathu08102003@gmail.com
TTS tại Văn phòng Luật sư Đồng Đội
Thông tin liên hệ:
Văn phòng luật sư Đồng Đội: P2708, Tòa nhà VP3 Bán đảo Linh Đàm, Hoàng Liệt, Hoàng Mai, Hà Nội
Điện thoại: 0936.026.559 – Email: tranxuantien1964@gmail.com
Website: https://dongdoilaw.vn
Facebook: https://www.facebook.com/dongdoilaw
Youtube: https://www.youtube.com/c/VănphòngluậtsưĐồngĐội
Tiktok: https://www.tiktok.com/@vpls_dongdoi