Trong thực tiễn quản lý đất đai, nhiều trường hợp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) được cấp sai quy định – như cấp cho sai đối tượng, cấp khi đã có quyết định thu hồi đất – gây ra hậu quả pháp lý nghiêm trọng và thiệt hại thực tế cho người dân.
Tuy nhiên quá trình xác lập, thực hiện nghĩa vụ bồi thường trên thực tế vẫn còn nhiều vướng mắc, nhất là trong việc xác định cơ quan có trách nhiệm, loại thiệt hại được bồi thường và trình tự giải quyết.
Trách nhiệm bồi thường của nhà nước khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trái pháp luật từ vụ việc trong thực tiễn
VPLS Đồng Đội vừa giải quyết một vụ việc cho thấy trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có thể phát sinh khi GCNQSDĐ được cấp trái pháp luật. Trong vụ việc này, một cá nhân nhận chuyển nhượng thửa đất hơn 1600m², nộp hồ sơ đầy đủ và được cấp GCNQSDĐ vào tháng 1/2021. Tuy nhiên, trước đó gần một tháng, thửa đất này đã có thông báo thu hồi để thực hiện dự án đầu tư công.
Việc cấp giấy trong khi đã có thông báo thu hồi là hành vi trái quy định tại khoản 6 Điều 19 Nghị định 43/2014/NĐ-CP. Kết quả là người mua đất không được sử dụng đất, bị thiệt hại tài chính nghiêm trọng và phải khởi kiện để yêu cầu bồi thường.
Vụ việc này đặt ra câu hỏi pháp lý quan trọng: khi nào Nhà nước phải bồi thường trong trường hợp cấp GCNQSDĐ sai?
Theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, hành vi cấp GCNQSDĐ trong khi biết rõ hoặc buộc phải biết đất đã có quyết định thu hồi là hành vi hành chính trái pháp luật gây thiệt hại thực tế. Đây là điều kiện đầy đủ để phát sinh trách nhiệm bồi thường. Trong trường hợp này, việc Sở Tài nguyên và Môi trường vẫn tiến hành cấp giấy chứng nhận thể hiện rõ sai phạm về quy trình hành chính và năng lực quản lý đất đai.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy người dân thường khó tiếp cận cơ chế bồi thường. Dù thanh tra đã kết luận có sai phạm và yêu cầu xử lý trách nhiệm, nhưng việc chi trả bồi thường không được thực hiện tự nguyện mà phải thông qua khởi kiện. Điều này phản ánh bất cập trong cơ chế thực thi: thiếu quy định buộc cơ quan gây thiệt hại chủ động bồi thường; chưa rõ ràng trong việc phân định trách nhiệm giữa các cấp chính quyền; và đặc biệt, việc xác định thiệt hại vật chất, tinh thần trong lĩnh vực đất đai còn thiếu cơ chế cụ thể.
Mặt khác, người bị thiệt hại phải tự chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hành vi hành chính và tổn thất, gây khó khăn lớn trong thực tiễn.
Từ góc độ chính sách, vụ việc cho thấy yêu cầu cấp thiết phải hoàn thiện pháp luật theo hướng tăng cường tính chủ động trong bồi thường hành chính, minh bạch hóa quy trình và xác lập chế tài nghiêm khắc với cơ quan cố tình trì hoãn.
Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không chỉ là thủ tục hành chính mà còn là hành vi mang tính xác lập quyền tài sản; vì vậy, mọi sai sót từ phía Nhà nước cần được khắc phục kịp thời, công bằng và có trách nhiệm, đúng với tinh thần của một nhà nước pháp quyền.
(Ảnh minh họa. Internet)
Một số lưu ý cho đương sự trong vụ kiện bồi thường do hành vi cấp GCNQSDĐ trái pháp luật
Trong các vụ việc mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) trái pháp luật, người bị thiệt hại có quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường theo quy định tại Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017. Tuy nhiên, để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của mình, đương sự cần lưu ý một số điểm quan trọng sau:
Thứ nhất, phải chứng minh rõ hành vi cấp GCNQSDĐ là hành vi hành chính trái pháp luật. Trong trường hợp đất đã có thông báo thu hồi hoặc quyết định thu hồi trước thời điểm cấp giấy, đương sự nên thu thập đầy đủ văn bản pháp lý chứng minh mốc thời gian, như: thông báo thu hồi, văn bản giao đất, các quyết định liên quan đến dự án sử dụng đất. Ngoài ra, cần giữ bản sao GCNQSDĐ đã được cấp để đối chiếu.
Thứ hai, phải chứng minh thiệt hại thực tế xảy ra do hành vi đó gây ra. Cần làm rõ số tiền đã bỏ ra để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, các chi phí phát sinh hợp pháp như đi lại, công chứng, lệ phí, thuế chuyển nhượng; đồng thời chứng minh rằng thiệt hại này là hệ quả trực tiếp của việc GCNQSDĐ được cấp sai, ví dụ: mất quyền sử dụng, mất quyền bồi thường hoặc hỗ trợ khi thu hồi đất.
Thứ ba, chuẩn bị hồ sơ khởi kiện đầy đủ theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự, trong đó nêu rõ yêu cầu khởi kiện, căn cứ pháp lý (dẫn Điều 2, Điều 11 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017) và yêu cầu Tòa án buộc cơ quan gây thiệt hại – thường là Sở Tài nguyên và Môi trường – phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường. Nên chủ động liệt kê chi tiết các khoản yêu cầu bồi thường để tránh bị tòa án loại trừ do “chưa rõ yêu cầu”.
Thứ tư, đương sự nên cân nhắc việc thuê luật sư hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp để hỗ trợ trong quá trình tố tụng. Việc chứng minh lỗi hành chính và thiệt hại không đơn giản, đặc biệt khi phải đối mặt với cơ quan nhà nước có điều kiện tiếp cận hồ sơ và kỹ thuật lập luận hành chính tốt hơn.
Cuối cùng, đương sự cần xác định rõ mục tiêu khởi kiện không chỉ nhằm đòi lại khoản tiền bị mất, mà còn góp phần yêu cầu cơ quan nhà nước có trách nhiệm khắc phục hậu quả công vụ. Việc khởi kiện và yêu cầu bồi thường chính là hành động thiết thực bảo vệ quyền tài sản đã được pháp luật hiến định và tạo tiền lệ cho việc nâng cao kỷ luật công vụ trong lĩnh vực quản lý đất đai.
Nhật Minh – Thực tập sinh Văn phòng luật sư Đồng Đội
Thông tin liên hệ:
– Văn phòng luật sư Đồng Đội (Đoàn luật sư TP. Hà Nôi): P2708, Tòa nhà VP3 Bán đảo Linh Đàm, Hoàng Liệt, Hoàng Mai, Hà Nội
– Điện thoại: 0936.026.559 – Email: tranxuantien1964@gmail.com
– Website: https://dongdoilaw.vn
– Facebook: https://www.facebook.com/dongdoilaw
– Youtube: https://www.youtube.com/c/VănphòngluậtsưĐồngĐội
– Tiktok: https://www.tiktok.com/@vpls_dongdoi