Người xưa có câu “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” nghĩa là “Một ngày tù bằng nghìn năm ở ngoài”. Thế mới thấy được tự do là một thứ vô cùng quý báu. Trong các vụ án hình sự, người bị tố giác, kiến nghị khởi tố, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể bị hạn chế quyền tự do bằng các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam,.. dẫn đến nhiều trường hợp rơi vào tình trạng khủng hoảng tinh thần trầm trọng.
Trước năm 1987, vai trò của Luật sư trong hoạt động tố tụng chưa được quan tâm chú trọng. Kể từ khi pháp lệnh về Luật sư năm 1987, Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị , Luật luật sư 2006 được ban hành, vai trò của Luật sư trong vụ án hình sự mới được ghi nhận trong hoạt động xét xử, đảm vbảo hoạt động giải quyết vụ án của cơ quan tố tụng được giải quyết vụ án một cách khách quan, đúng pháp luật , tranh những vụ án oan sai.
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã nêu rõ: “Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác…”; “việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa… để đề ra những bản án, quyết định đúng pháp luật”; “các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư giỏi tranh luận dân chủ tại phiên tòa”….
Vai trò của Luật sư tiếp tục được các nhà làm luật củng cố, phát huy vai trò, quyền của luật sư trong hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động tranh tụng nói riêng tại Bộ luật tố tụng hình sự 2015
Tuy nhiên, phần lớn người bị tố giác, bị can, bị cáo,..chưa hiểu được vai trò của Luật sư một phần do thiếu hiểu biết pháp luật một phần do tác động từ nhiều yếu tố nên cảm thấy việc thuê Luật sư là không cần thiết. Trong khi đó, trên thực thế có rất nhiều vụ việc, do không nắm rõ quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình và khi đối diện với cơ quan tố tụng họ tỏ ra lúng túng, thậm chí đưa ra những lời khai bất lợi dẫn đến quyền lợi của họ bị ảnh hưởng.
Vậy, nếu Luật sư tham gia từ giai đoạn điều tra với vai trò là người bào chữa , người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì họ sẽ làm gì để được bảo đảm, bảo vệ kịp thời quyền lợi của người bị tố giác, kiến nghị khởi tố, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo?
Thứ nhất, trấn an tinh thần, phổ biến quyền và nghĩa vụ và giải thích pháp luật.
Như đã đề cập ở trên, không ít người vướng vào vòng lao lý tỏ ra hoang mang lo sợ, khi bị cơ quan điều tra triệu tập lấy lời khai thì không biết khai gì? Khai như thế nào? Nếu khai thì có bất lợi cho mình không, họ có quyền và nghĩa vụ như thế nào trong vụ án hình sự,…
Một trong các quyền được biết đến nhiều người dân biết đến là quyền im lặng, người bị buộc tôi“không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội” theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 58, điểm c khoản 2 điều 59, điểm d Khoản 2 Điều 60 và điểm h Khoản 2 Điều 61 BLTTHS hiện hành nhưng nhưng trên thực tế để áp dụng quyền này khi nào và việc sử dụng quyền không phải là cản trở quá trình giải quyết vụ án hay không thì không phải ai cũng biết.
Theo quy định tại Điều 72, Điều 74, Điều 83 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.
Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
Với sự tham gia của Luật sư, bị can, bị cáo,… sẽ hiểu được họ có quyền và nghĩa vụ như thế nào? Họ có phải đưa ra những lời khai bất lợi cho mình không? Khi nào họ được dùng quyền im lặng? Họ có quyền khiếu nại hay không?….và điều không kém phần quan trọng là giúp người bị buộc góp phần trấn an tinh thần của họ.
Thứ hai, Luật sư là cầu nối giữa bị can, bị cáo, người bị kiến nghị khởi tố, người bị tố giác,… và gia đình họ.
Trong thời điểm bị triệu tập, bị can có thể chưa hình dung được tất cả mọi tình huống nào sẽ có thể xảy ra với bản thân mình vì thiếu kiến thức pháp luật. Đã từng có trường hợp, bị can lúc bị mời triệu tập thì họ chỉ biết là lên làm việc nhưng đến khi khai xong họ lại bị tạm giữ. Vì đang không hiểu điều gì xảy ra với bản thân, nên trong tình trạng đó, nhiều người có tâm lý hoang mang, lo sợ. Họ không biết bản thân phải làm gì trong trường hợp này. Và ngay cả gia đình họ cũng lo lắng khi không biết được tình hình của người thân mình như thế nào.
Trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù có quy định về việc người thân của người bị tam giam, tạm giữ có quyền thăm gặp bị can, bị cáo. Việc thăm gặp phải chịu sự giám sát, theo dõi của cơ sở giam giữ; cơ quan thụ lý vụ án có thể giám sát việc thăm gặp nếu có nhu cầu. Tuy nhiên, những quy định này là để áp dụng cho trường hợp thăm gặp thân nhân và đối tượng không phải là thân nhân nhưng được cơ quan đang thụ lý vụ án đồng ý cho thăm gặp, không áp dụng đối với Luật sư nhưng trên thực tế quyền này chưa được bảo đảm.
Trong khi đó, theo quy định tại khoản 3 Điều 22 Luật thi hành tạm giam, tạm giữ năm 2015 quy định, Luật sư được gặp người bị tạm giam để thực hiện việc bào chữa, không giới hạn số lần gặp, điều kiện gặp mặt là phải xuất trình giấy tờ tuỳ thân và giấy tờ về việc bào chữa, không quy định việc giám sát buổi gặp, không cần phải xin phép bất cứ cơ quan nào, không quy định việc phải báo trước về việc thăm gặp, cũng không cho phép các cơ quan quản lý nhà nước được phép quy định chi tiết nội dung này.
Bên cạnh đó, ngay khi được triệu tập đến cơ quan điều tra hoặc cơ quan tiến hành một số hoạt động điều tra thì người bị tình nghi, người bị tố giác, bị can đã có quyền mời Luật sư. Khi luật sư hoàn tất thủ tục Luật sư và được cơ quan điều tra tố tụng thì họ sẽ được làm việc, trao đổi với thân chủ của mình. Do đó, Luật sư sẽ là cầu nối cung cấp thông tin, tình hình của thân chủ và gia đình thân chủ để họ yên tâm và tập trung vào các công việc của mình.
Thứ ba, Luật sư có quyền tham gia các buổi hỏi cung
Các vụ án hình sự được thực hiện theo các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Và trong các giai đoạn đó, lời khai đầu tiên của người khai luôn rất quan trọng. Bởi lẽ, những lời khai đầu tiên là những manh mối để cơ quan điều tra có thể khai thác vụ án theo hướng của những lời khai đó. Lời khai trong quá trình điều tra đều được ghi lại và là bằng chứng để buộc tội hay chứng minh sự liên quan của người đó với một vụ án. Người khai mà có những lời khai bất lợi cho bản thân thì sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình giải quyết vụ án sau này
Với sự có mặt của Luật sư sẽ đảm bảo cho hoạt động hỏi cung được diễn ra khách quan, hạn chế được tình trạng ép cung, mớm cung làm sai lệch bản chất vụ án. Bởi trên thực tế, còn tồn tại một số trường hợp cơ quan điều tra sử dụng những biện pháp hỏi cung trái pháp luật (như mớm cung, ép cung, dùng nhục hình) vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân của người bị tình nghi thực hiện tội phạm và hậu quả dẫn đến các vụ oan sai.
Khi tiến hành hỏi cung, điều tra viên ghi câu trả lời của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố vào biên bản lấy lời khai.Trường hợp điều tra viên hoặc cán bộ điều tra đưa ra những câu hỏi mang tính buộc tội và gây bất lợi cho thân chủ của mình, Luật sư có quyền đề nghị việc đặt câu hỏi khác hoặc đề nghị thay đổi điều tra viên nếu có căn cứ cho rằng họ thiếu khách quan khi làm nhiệm vụ.
Khi kết thúc việc lấy lời khai, Điều tra viên, cán bộ điều tra phải đọc lại hoặc đưa cho người bào chữa đọc lại biên bản lấy lời khai, sau khi xác nhận đúng nội dung câu hỏi của Luật sư câu trả lời của bị can, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố,… thì Điều tra viên, cán bộ điều tra yêu cầu Luật sư của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố ký vào biên bản. Trường hợp biên bản ghi chưa đầy đủ, chưa chính xác nội dung câu hỏi và câu trả lời Luật sư có quyền đề nghị sửa đổi, bổ sung hoặc ghi ý kiến của mình trước khi ký vào biên bản. Khi người bào chữa đề nghị, Điều tra viên phải xác nhận thời gian làm việc thực tế của người bào chữa tham gia tố tụng trong quá trình điều tra vụ án hình sự.
Thứ tư, Luật sư có đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.
Luật sư có quyền được đưa ra các văn bản đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, cơ quan đang thụ lý vụ án tiếp nhận văn bản để giải quyết. Trong thời hạn không quá 10 ngày làm việc, kể từ khi tiếp nhận, nếu có căn cứ thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 125, Điều 130, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 thì Cơ quan đang thụ lý vụ án ra quyết định thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo thẩm quyền hoặc tiến hành các thủ tục cần thiết gửi Viện kiểm sát quyết định đối với các biện pháp ngăn chặn do VKS phê chuẩn.
Nếu Luật sư có đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế không có căn cứ pháp luật thì Cơ quan đang thụ lý vụ án từ chối việc thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế và thông báo cho người bào chữa bằng văn bản, trong đó nêu rõ lý do từ chối.
Thứ năm, Luật sư có quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, người bào chữa thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật và giao cho Cơ quan đang thụ lý vụ án thì Điều tra viên, cán bộ điều tra phải lập biên bản giao nhận, đưa vào hồ sơ vụ án, vụ việc. Trường hợp người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố đưa ra yêu cầu, nếu thấy yêu cầu có liên quan đến việc bào chữa hoặc liên quan đến việc giải quyết vụ án, vụ việc thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra lập biên bản ghi nhận yêu cầu của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.
Trên thực tế đã có rất nhiều vụ án oan sai do lỗi của các cơ quan điều tra. Có người không có tội nhưng bị buộc tội phải ngồi tù cả hơn nửa đời người. Có người thị bị xác định sai tội danh hay là sai khung hình phạt. Trong đó nổi bật có ông Trần Ngọc Chinh và ông Trần Trung Thám ngụ tại tỉnh Vĩnh Phúc đã phải mang tiếng oan giết người suốt 39 năm, trong đó ông Thám còn phải dành những ngày cuối đời tại tạm giam mà không thể ở bên cạnh người thân và gia đình do ông đã mất trong những ngày bị tạm giam. Đó thật là các bi kịch của cuộc đời. Có những án oan sai được phát hiện và được nhà nước bồi thường. Nhưng sự bồi thường ấy đâu có bù đắp được những nỗi đau mà những người đó phải chịu. Có những người chứng kiến câu chuyện cũng đã thốt lên những lời nói nghe mà đau lòng như “một cái án oan 40 năm đã làm ảnh hưởng cuộc sống của mấy thế hệ người ta…”.
Trách nhiệm của Luật sư bào chữa trong một vụ án hình sự là nói lên những sự thật có lợi cho người bị buộc tội và im lặng trước những bất lợi pháp lý hiện hữu. Hoạt động này không triệt tiêu công lý mà đó lại chính là công lý, đảm bảo sự cân bằng cho cán cân công lý giữa một bên buộc tội và một bên gỡ tội. Chính vì những lý do trên, cách tốt nhất để giải quyết những vấn đề đó là phải biết cách để bảo vệ bản thân mình trước tiên. Bằng cách nên tìm cho mình một luật sư giỏi có tâm, có tầm để đồng hành cùng mình khi bị vướng mắc các vấn đề pháp lý.
Trên đây là góc nhìn của Văn phòng Luật sư Đồng Đội về những lợi ích khi mời Luật sư tham gia vụ án hình sự ở giai đoạn khởi tố và điều tra, mọi thắc mắc vui lòng liên hệ theo thông tin liên hệ dưới đây để được giải đáp.
Thông tin liên hệ:
Văn phòng luật sư Đồng Đội: P2708, Tòa nhà VP3 Bán đảo Linh Đàm, Hoàng Liệt, Hoàng Mai, Hà Nội
Điện thoại: 0936.026.559 – Email: tranxuantien1964@gmail.com
Website: https://dongdoilaw.vn
Facebook: https://www.facebook.com/dongdoilaw
Youtube: https://www.youtube.com/c/VănphòngluậtsưĐồngĐội
Tiktok: https://www.tiktok.com/@vpls_dongdoi
Người viết: Nguyễn Thị Như Thùy – Hoàng Thị Thương
Điện thoại: 0367658315