Nghề Luật sư là một nghề cao quý và Luật sư là những người được xã hội tôn trọng và tin tưởng. Thông qua hoạt động của mình, Luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân. Với tính chất riêng của mình, Luật sư có các quyền và nghĩa vụ nhất định, đặc biệt là đối với khách hàng. Dưới đây, chúng tôi xin trình bày về quyền và nghĩa vụ của Luật sư về việc cung cấp thông tin với khách hàng trong vụ án hình sự.
Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa Luật sư và khách hàng
Trong tổng thể các mối quan hệ giữa luật sư với các chủ thể khác nhau trong hành nghề luật sư, quan hệ luật sư – khách hàng là mối quan hệ nền tảng làm phát sinh các quan hệ khác. Trong vụ án hình sự, mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng thường phát sinh thông qua các hình thức như: Khách hàng tự tìm đến luật sư; Khách hàng tìm đến luật sư qua bạn bè, người quen, qua quảng cáo dịch vụ pháp lý hoặc qua sự chỉ định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong các trường hợp bắt buộc phải có luật sư tham gia. Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa Luật sư và khách hàng là khi hai bên giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý và có đơn mời Luật sư.
Quyền và nghĩa vụ của Luật sư về việc cung cấp thông tin với khách hàng trong vụ án hình sự
Mối quan hệ giữa Luật sư và khách hàng là mối quan hệ rất đặc biệt, tuy nhiên không phải lúc nào cũng êm đềm mà có những mâu thuẫn, những mắc mớ, những hiểu nhầm… Đó là chuyện bình thường. Xong có một chuyện không bình thường là việc ứng xử đôi bên sao cho đúng luật và đúng chức năng cụ thể là Luật sư có quyền và nghĩa vụ như thế nào trong vụ án hình sự.
Quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong vụ án hình sự được thể hiện xuyên suốt trong các giai đoạn bao gồm cả giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử. Theo đó, các quyền và nghĩa vụ chung của Luật sư được quy định tại Điều 21 Luật Luật sư 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012, 2015. Riêng trong vụ án hình sự, Luật sư có quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Một trong các quyền nổi bật phải kể đến đó là quyền gặp, hỏi người bị buộc tội; Có mặt khi lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác; Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản; Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;…
Cùng với đó là các nghĩa vụ như: sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; Tôn trọng sự thật; Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không được sử dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Như vậy, vấn đề cung cấp và bảo mật thông tin của Luật sư là một vấn đề luôn được nhấn mạnh, mà các Luật sư cần đặc biệt quan tâm. Luật Luật sư đã quy định riêng một điều về “Bí mật thông tin” tại Điều 25, theo đó quy định: Luật sư không được tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; Luật sư không được sử dụng thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Tổ chức hành nghề luật sư có trách nhiệm bảo đảm các nhân viên trong tổ chức hành nghề không tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng của mình.
Vấn đề sử dụng thông tin trong vụ án hình sự như thế nào là một vấn đề hết sức nhạy cảm, bởi nếu Luật sư không chú ý thì rất dễ vi phạm pháp luật. Cụ thể, Luật sư sẽ chỉ có nghĩa vụ thông tin, trao đổi với người trực tiếp ký hợp đồng và người cần sự giúp đỡ của Luật sư (như bị hại, bị cáo, bị can, người bị tạm giam, tạm giữ…). Điều này đồng nghĩa với việc chỉ người ký hợp đồng và người được bảo vệ có quyền đề nghị cung cấp thông tin vụ án và được biết hướng tiếp theo của vụ việc,… Luật sư không có quyền và nghĩa vụ cung cấp thông tin cho những người không liên quan, đặc biệt là với bên đối thủ. Do đó, khi có những đề nghị cung cấp thông tin không phù hợp, Luật sư phải từ chối, tránh để lộ thông tin sai quy định.
Đối với thân chủ, người nhà, Luật sư cũng cần khéo léo cung cấp, trao đổi những thông tin phù hợp, đặc biệt là trong giai đoạn điều tra, khi mọi việc còn chưa rõ ràng. Cụ thể theo quy định tại điểm e, khoản 2, Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định người bào chữa không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bên cạnh đó, Luật sư cũng không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không được sử dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Tuy nhiên, thực tế có rất nhiều trường hợp khách hàng (thân chủ hoặc gia đình) muốn luật sư cung cấp thông tin trong quá trình điều tra, thậm chí là thỏa thuận tăng thêm phí luật sư để nhận được kết quả điều tra của cơ quan tố tụng. Nếu luật sư cung cấp thông tin cho khách hàng, gia đình của họ thì đã vi phạm pháp luật tố tụng và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngược lại, nếu không cung cấp thông tin thì có thể xảy ra mâu thuẫn với khách hàng, nhiều khách hàng còn nghĩ rằng Luật sư kém về chuyên môn nên mới không cung cấp thông tin cho khách hàng và gia đình…. gây khó khăn cho việc thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý đã giao kết ví dụ như khách hàng không nghe theo sự tư vấn, hướng dẫn của luật sư, kiên quyết làm theo ý mình rồi kết quả không thực sự như mong muốn. Vậy khi rơi vào trường hợp trên, luật sư cần phải làm gì?
Cách tốt nhất để vừa tuân thủ quy định pháp luật vừa gìn giữ được mối quan hệ hòa hoãn với khách hàng là luật sư giải thích cho khách hàng hiểu quy định của pháp luật trong việc giữ bí mật điều tra. Do người phạm tội thường tìm cách nắm thông tin hoạt động điều tra để làm vô hiệu hóa hoạt động điều tra, trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật. Vì vậy, những thông tin về hoạt động điều tra cần phải giữ bí mật, và Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định luật sư – với tư cách người tham gia tố tụng không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện việc bào chữa. Do đó, việc luật sư không tiết lộ những thông tin trong quá trình điều tra là tuân thủ quy định pháp luật, là nghĩa vụ, chứ không phải muốn che giấu hay lừa dối khách hàng. Bên cạnh đó, khách hàng cũng cần giữ thái độ tôn trọng, tin tưởng luật sư của mình. Bởi khi đã giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý, luật sư luôn mong muốn giúp đỡ khách hàng. Những bí mật điều tra không được phép tiết lộ thì luật sư cũng không thể cung cấp cho khách hàng.
Trên đây là những chia sẻ của chúng tôi về quyền và nghĩa vụ của Luật sư về việc cung cấp thông tin với khách hàng trong vụ án hình sự, mong rằng bài viết sẽ giúp ích được cho mọi người.
Thông tin liên hệ:
Văn phòng luật sư Đồng Đội: P2708, Tòa nhà VP3 Bán đảo Linh Đàm, Hoàng Liệt, Hoàng Mai, Hà Nội.
Điện thoại: 0936.026.559 – Email: tranxuantien1964@gmail.com
Website: https://dongdoilaw.vn
Facebook: https://www.facebook.com/dongdoilaw
Youtube: https://www.youtube.com/c/VănphòngluậtsưĐồngĐội
Tiktok: https://www.tiktok.com/@vpls_dongdoi
Người viết: Trần Thị Minh Hạnh – SĐT: 0942237266 – Gmail: minhhanh2911@gmail.com
Nguyễn Thị Lan Anh – TTS Văn phòng Luật sư Đồng Đội – SĐT: 0976335012- Gmail: lananhnguyenthi839@gmail.com