TẠI SAO CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN M.L PHẢI TẠM DỪNG CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN?
Cưỡng chế thi hành án là vấn đề phức tạp, người phải thi hành án thường không đồng ý, không hợp tác vì cho rằng quá trình tổ chức thi hành án còn nhiều sai phạm chưa được làm rõ. Vậy trong trường hợp này cơ quan thi hành án cần làm gì để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cả người được thi hành án và người phải thi hành án cũng như đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án được thi hành đúng quy định pháp luật, tránh hậu quả không thể khắc phục được trong thi hành án? Vụ việc sau đây là một ví dụ điển hình cho thấy Chấp hành viên (CHV), cơ quan thi hành án đã lắng nghe, tiếp thu ý kiến, phản ánh của đương sự để tạm dừng cưỡng chế thi hành án kịp thời.
1. Tóm tắt vụ việc:
Anh B.V.T là người phải thi hành án theo Quyết định THA ngày 09/10/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện M.L (CCTHADS) đối với Bản án số 65/2017/KDTM-PT ngày 08/8/2017 của TAND thành phố H.N và Bản án số 05/2016/KDTM-ST ngày 20/10/2016 của TAND huyện M.L, thành phố H.N.
Năm 2011 vợ chồng anh B.V.T đến Ngân hàng TMCP Đ.C vay khoản tiền 700.000.000 đồng (sau đây gọi tắt là “Ngân hàng”). Vợ chồng anh B.V.T đã trả được 128.000.000 đồng (Bằng chữ: Một trăm hai mươi tám triệu đồng) tiền lãi. Do việc kinh doanh gặp khó khăn nên vợ chồng anh B.V.T không có điều kiện trả khoản nợ trên của Ngân hàng. Năm 2016 Ngân hàng khởi kiện ra TAND huyện M.L, năm 2017 TAND thành phố H.N xử phúc thẩm vụ án trên, theo bản án trên vợ chồng anh B.V.T có nghĩa vụ phải trả nợ cho Ngân hàng là bao gồm cả nợ gốc và lãi tính đến thời điểm năm 2017 là gần 1 tỷ 300 triệu, hiện nay số tiền nợ gốc và tiền lãi đã lên đến gần 3,1 tỷ đồng.
2. Tại sao CCTHADS huyện M.L phải dừng cưỡng chế 02 lần?
Dấu hiệu mập mờ, tiêu cực về kết quả thẩm định giá tài sản:
Tại thời điểm 2011, Ngân hàng định giá tài sản thế chấp của vợ chồng anh B.V.T khoảng 1.400.000.000 đồng, nhưng đến năm 2018 Công ty thẩm định ký kết Hợp đồng với Chi cục THADS huyện M.L lại thẩm định tổng giá trị tài sản trên chỉ còn 485.000.000 đồng? Trong khi đó, hiện trạng đất và tài sản trên đất thời điểm này không thay đổi. Rõ ràng có có dấu hiệu không bình thường trong việc thẩm định giá này bởi vì thị trường bất động sản Việt Nam chưa bao giờ biến động đến mức giảm mất gần 2/3 giá trị sau 08 năm như vậy? Hơn nữa, tại thời điểm năm 2018 , ông N.X.Tới đã trúng đấu giá với giá rất rẻ là 553.000.000 đồng (Bằng chữ: Năm trăm năm mươi ba triệu đồng).
Người phải thi hành án không được quyền tự bán tài sản để thi hành án theo quy định:
Trong suốt quá trình thi hành án vợ chồng anh B.V.T không được CHV giải thích quyền và nghĩa vụ của người phải thi hành án, không được quyền tự bán tài sản để thi hành án theo quy định mà bị cưỡng chế kê biên, bán đấu giá để thi hành án. Vợ chồng anh B.V.T cũng không được quyền thỏa thuận, lựa chọn tổ chức thẩm định giá, tổ chức bán đấu giá theo quy định tại Điều 98, Điều 101 Luật thi hành án dân sự hiện hành (Luật THADS).
Việc tổ chức bán đấu giá không được công khai theo quy định:
Trong quá trình bán đấu giá, thông tin về việc bán đấu giá không được công khai, niêm yết tại trụ sở tổ chức bán đấu giá, Chi cục THADS huyện M.L và UBND xã Tr.V, vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 35 Luật đấu giá tài sản 2016.
CHV không xác minh thông tin, nguồn gốc tài sản thi hành án, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các đồng thừa kế, không thông báo, hướng dẫn đương sự khởi kiện phân chia tài sản chung:
Về nguồn gốc thửa đất số 04, tờ bản đồ số 03, diện tích 247 m2 bị cưỡng chế kê biên, bán đấu giá, đây là phần đất được bố mẹ, anh trai (đã chết), và chị gái anh B.V.T và mua của ông Tấn Cang từ năm 1990 với diện tích là 247 m2. Như vậy thửa đất được xác định thuộc sở hữu chung của bố mẹ, anh trai, và chị gái anh B.V.T. Thời điểm anh trai và bố anh B.V.T chết không để lại di chúc và chưa thực hiện việc kê khai di sản thừa kế, từ đó đến nay anh B.V.T cùng mẹ là bà B.T.T tiếp tục sinh sống trên thửa đất trên.
Tuy nhiên, năm 2002, UBND huyện M.L không thực hiện xác minh nguồn gốc đất đã tiến hành thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà B.T.T (thời điểm cấp sổ, hộ gia đình gồm 02 người là bà B.T.T và anh B.T.T) đối với thửa đất số 04, tờ bản đồ số 03, diện tích đất 247m2, mục đích đất ở và thời hạn sử dụng lâu dài.
Năm 2011, thửa đất số 04, tờ bản đồ số 03, diện tích 247m2 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng mang tên anh B.V.T, trong khi trước đó ngày 15/11/2009 bà B.T.T tôi đã lập Bản di chúc phân chia đất cho các con, trong đó cho con gái là phần diện tích 100m2 và anh B.V.T phần diện tích 100m2, bà B.T.T không biết việc anh B.V.T sang tên GCNQSDĐ.
Trong quá trình thi hành án, Chi cục THADS huyện M.L không tiến hành xác minh thông tin về nguồn gốc tài sản thi hành án này, dẫn đến sai phạm là kê biên toàn bộ quyền sử dụng 247m2 đất ở không thuộc quyền sở hữu của vợ chồng anh B.V.T – người phải thi hành án, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các đồng thừa kế, trái với quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung 2014.
CHV ban hành thông báo cưỡng chế trong khi trên đất đang có tài sản của bà B.T.Tr:
Năm 2019, bà B.T.Tr (chị gái của anh B.V.T) xây dựng 01 căn bếp, 01 nhà vệ sinh và 01 phòng ngủ trên diện tích 100m2 mà mẹ là bà B.T.T phân chia cho bà Tr theo di chúc. Hiện nay bà Tr vẫn đang sinh sống trên thửa đất này và tài sản của bà Trọng vẫn còn trên đất. Do đó, việc Chi cục THADS huyện M.L ban hành thông báo tổ chức cưỡng chế bàn giao tài sản trúng đấu giá trong khi chưa có phương án giải quyết đối với tài sản trên đất của bà B.T.Tr đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của bà Tr.
CHV chưa có phương án giải quyết đối với phần tài sản được xây dựng một phần trên đất lưu không:
Theo trích đo hiện trạng thửa đất số 04, tờ bản đồ số 03 ( Gửi kèm đơn kêu cứu) diện tích theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN) là 247,0m2, diện tích sử dụng thực tế là 330,8m2 (Trong đó: Diện tích đất lưu không là 83,8m2, diện tích này không nằm trong GCN).
Căn nhà 01 tầng + 01 nhà bếp được xây dựng một trên đất lưu không và một phần trên diện tích đất nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh B.V.T bị thi hành án, đây là tài sản gắn liền với đất. CHV tổ chức cưỡng chế thi hành án trong khi chưa có phương án giải quyết đối với căn nhà 01 tầng trên là không đảm bảo điều kiện thi hành án.
3. Cưỡng chế thi hành án dân sự – Sai nhưng đã kịp dừng?
Sau khi gia đình anh B.V.T có đơn kêu cứu khẩn cấp, phản anh về những sai phạm trên, CHV đã kịp thời ban hành thông báo tạm dừng cưỡng chế thi hành án vào tháng 7/2023 (thời hạn tạm dừng đến tháng 10/2023). Gia đình anh B.V.T có đơn khởi kiện đến TAND huyện M.L đề nghị phân chia tài sản chung, phân chia di sản thừa kế, do đó đến tháng 10/2023 vừa qua CHV đã tiếp tục ban hành thông báo tạm dừng cưỡng chế bàn giao tài sản “vô thời hạn” cho đến khi có thông báo mới CCTHADS huyện M.L.
Như vậy, việc CHV nhận ra những dấu hiệu sai phạm trong vụ việc, tiếp thu, lắng nghe ý kiến của người phải thi hành án đã kịp thời hạn chế, ngăn chặn được những hậu quả đáng tiếc xảy ra trong thi hành án. Cơ quan thi hành án cần hết sức thận trọng, hoãn cưỡng chế trong trường hợp cần thiết, khi có đơn từ khiếu nại, tố cáo của đương sự để tránh hậu quả không thể khắc phục được trong thi hành án. Ưu tiên biện pháp giáo dục, thuyết phục để người phải thi hành án tự nguyện bàn giao tài sản. Đồng thời, kịp thời tham mưu cơ quan chức năng nghiên cứu, hoàn thiện các quy đinh pháp luật về cưỡng chế thi hành án để vừa đảm bảo thi hành án hiệu quả, vừa đảm bảo cuộc sống của người phải thi hành án sau khi bị cưỡng chế, cơ quan thi hành án có thời gian để xác minh, làm rõ những sai phạm trong việc tổ chức thi hành án, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân.
Bạn đọc có thể tìm hiểu thêm về vụ việc thi hành án xảy ra tại Chi cục THADS TP.Yên Bái do VPLS Đồng Đội tham gia bảo vệ quyền lợi cho người phải thi hành án, CHV Trần Thị Hoa đã bị khởi tố về “Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”:
Sáng 14/9/2023, Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã tiến hành lệnh bắt, khám xét nơi làm việc và chỗ ở đối với bà Trần Thị Hoa (SN 1975), chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) TP Yên Bái (tỉnh Yên Bái), để điều tra về hành vi “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” theo khoản 3, Điều 360 của Bộ luật Hình sự.
https://dongdoilaw.vn/vi-sao-chap-hanh-vien-chi-cuc-thads-tp-yen-bai-bi-khoi-to-bat-tam-giam/
https://congthuong.vn/yen-bai-bat-giam-chap-hanh-vien-lien-quan-den-ban-dau-gia-tai-san-272272.html
https://doanhnghiephoinhap.vn/thanh-pho-yen-bai-chap-hanh-vien-sai-pham-doanh-nghiep-khon-kho.html
Người viết: Hoàng Lan – Chuyên viên pháp lý VPLS Đồng Đội
Thông tin liên hệ:
Văn phòng luật sư Đồng Đội: P2708, Tòa nhà VP3 Bán đảo Linh Đàm, Hoàng Liệt, Hoàng Mai, Hà Nội
Điện thoại: 0936.026.559 – Email: tranxuantien1964@gmail.com
Website: https://dongdoilaw.vn
Facebook: https://www.facebook.com/dongdoilaw
Youtube: https://www.youtube.com/c/VănphòngluậtsưĐồngĐội
Tiktok: https://www.tiktok.com/@vpls_dongdoi