Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) là khoảng thời gian mà sau khi hết thời hạn đó, người phạm tội không bị truy cứu TNHS. Việc xác định thời hiệu truy cứu TNHS rất quan trọng, là cơ sở để xác định một người vi phạm pháp luật hình sự có thể bị truy cứu hay không trong một thời hạn nhất định. Tuy nhiên, thực tế áp dụng có nhiều vướng mắc, bất cập khi xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ảnh minh họa
Dưới đây là những điều cần biết về thời hiệu truy cứu TNHS theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Thời hạn của thời hiệu truy cứu TNHS
Theo quy định tại Điều 27 Bộ luật hình sự (BLHS) thì:
“Điều 27. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
- Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
a) 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;
b) 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;
c) 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
d) 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật này quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.
Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.”
(Tội phạm được phân loại theo Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015 dựa trên mức cao nhất của khung hình phạt).
- Những tội phạm không áp dụng thời hiệu truy cứu TNHS
Theo Điều 28 Bộ luật Hình sự 2015, một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng không áp dụng thời hiệu truy cứu TNHS, bao gồm:
“1. Các tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII của Bộ luật này;
Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định tại Chương XXVI của Bộ luật này;
Tội tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 353 của Bộ luật này; tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 354 của Bộ luật này.”
3. Cách tính thời hiệu truy cứu TNHS
– Thời hiệu truy cứu TNHS được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, thời điểm bắt đầu tính thời hiệu có thể khác.
– Đối với tội phạm có tính chất kéo dài (như tội chiếm đoạt tài sản, mà hành vi chiếm đoạt vẫn tiếp tục diễn ra, tội bắt, giam hoặc giữ người trái pháp luật, …), và tội phạm liên tục (tội tàng trữ trái phép vũ khí, ma túy, tội bán dâm, tội làm giả con dấu, giấy tờ, …) thời hiệu được tính từ ngày hành vi vi phạm chấm dứt hoặc hành vi bị ngăn chặn (ví dụ: ngày tài sản được trả lại, vũ khí bị thu giữ, hoặc người phạm tội bị bắt).
– Nếu trong thời gian tính thời hiệu, người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội mới mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.
– Khi hết thời gian theo quy định của BLHS, nếu cơ quan tiến hành tố tụng không ra quyết định khởi tố thì người đó không bị truy cứu TNHS nữa.
– Nếu trong thời gian này, người phạm tội bị khởi tố, truy tố hoặc xét xử, thì thời hiệu coi như đã bị gián đoạn và không áp dụng nữa.
Gần đây, VPLS Đồng Đội có tiếp nhận thông tin về nhiều vụ việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Hậu quả của việc buôn người này luôn rất nặng nề, về cả thể chất cũng như tinh thần đối với người bị hại và gia đình nạn nhân. Trong đó, vụ việc chị Lê Thị H (Thanh Hóa) bị người quen lừa bán sang Trung Quốc năm 1992, đã 33 năm trôi qua nay chị mới được về Việt Nam đoàn tụ người thân. Biết bao mất mát, đau khổ, tủi hờn mà một người phụ nữ phải chịu đựng tính từ lúc bị bán sang Trung Quốc khi mới 16 tuổi đến nay đã trung niên. Trong khi đó, kẻ gây nên tội ác vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Với vụ việc này, thực tiễn đặt ra là liệu có còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự kẻ buôn người?
Vụ việc của chị H là một ví dụ điển hình liên quan đến tội phạm mua bán người – một tội danh thường có tính chất kéo dài và phức tạp trong việc xác định thời điểm bắt đầu và kết thúc của hành vi phạm tội. Nếu nhìn nhận một cách cơ bản về quy định của pháp luật căn cứ theo Khoản 2 Điều 27 BLHS nêu trên, “thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện” và đối với tội mua bán người (Điều 150 BLHS 2015), với mức phạt tù lên tới 20 năm hoặc tù chung thân, thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự tối đa là 20 năm. Vụ việc của chị Lê Thị H đã xảy ra từ 33 năm trước thì có khả năng đã hết thời hiệu truy tố trách nhiệm hình sự.
Vậy, nếu tính thời hiệu từ thời điểm nạn nhân bị bán, có thể dẫn đến việc hết thời hiệu truy cứu trước khi nạn nhân kịp tố giác. Điều này tạo ra lỗ hổng pháp lý, khiến nhiều kẻ phạm tội buôn bán người thoát khỏi trách nhiệm hình sự.
Trong vụ việc buôn bán người, thiết nghĩ, cần xem xét đến các yếu tố trở ngại khách quan là vụ việc mua bán người này chỉ mới bị phát hiện khi chị H trở về từ Trung Quốc sau 33 năm bị bán, giam giữ, bóc lột tại một vùng núi hẻo lánh, nơi mà chị hoàn toàn xa lạ, không biết tiếng, không có giấy tờ tùy thân, không liên lạc được với bên ngoài. Người thân của chị H không hay biết chị H đã bị bán sang Trung Quốc, mà chỉ có thể nhận định chị H bỏ nhà đi rồi mất liên lạc. Theo lẽ thông thường, chị H phải có đủ điều kiện khách quan và người thân chị H phải biết được chị H bị bán đi thì mới có thể tố cáo, tố giác tội phạm đến cơ quan chính quyền. Nhưng thực tế thì chị H đã ở trong điều kiện không thể tố cáo kẻ gây ra tội ác cho mình, và người nhà chị H cũng không hề hay biết sự việc chị H bị bán sang Trung Quốc cho đến khi chị H trở về Việt Nam đoàn tụ gia đình.
Ảnh minh họa
Theo chúng tôi, cơ quan tố tụng nên xem xét những vụ mua bán người có tính chất phức tạp như vụ chị H là trường hợp đặc biệt và áp dụng cách tính thời hiệu đặc biệt. Có thể nhận thấy rằng, trong vụ việc mua bán người xuyên biên giới, nạn nhân bị giam cầm, không có cơ hội trình báo ngay sau khi bị bán, mà chỉ có thể tố giác tội phạm nhiều năm sau khi thoát về nước (thời điểm hành vi tội phạm bị phát hiện), thì cần xem xét cách tính thời hiệu tương tự như trường hợp tội phạm kéo dài, mặc dù hành vi bán người đã hoàn thành. Nếu không tính thời gian nạn nhân bị giam giữ vào thời hiệu, thì nhiều vụ án có thể không bị xử lý do đã hết thời hiệu trước khi nạn nhân được giải cứu.
Theo chúng tôi, cơ quan tố tụng có thể xem xét việc xác định tội phạm mua bán người là tội phạm kéo dài, và nên bổ sung quy định xác định hành vi giam cầm, kiểm soát, cưỡng bức nạn nhân sau khi bị bán vẫn là một phần của tội phạm, và thời hiệu chỉ được tính từ thời điểm nạn nhân thoát khỏi sự kiểm soát của hành vi phạm tội. Điều này đảm bảo rằng ngay cả khi nạn nhân bị bán nhiều năm trước, nhưng vẫn bị kiểm soát, cưỡng bức, thì hành vi phạm tội vẫn chưa chấm dứt, đồng nghĩa với việc thời hiệu chưa bắt đầu tính.
Việc xác định thời điểm bắt đầu và chấm dứt thời hiệu truy cứu TNHS là vấn đề quan trọng để đảm bảo tính công bằng và hợp lý trong việc xử lý tội phạm. Tuy nhiên, quy định hiện hành vẫn còn một số bất cập cần được điều chỉnh để phù hợp hơn với thực tế. Vụ việc chị Lê Thị H bị bán sang Trung Quốc cho thấy những bất cập trong cách tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm mua bán người. Cần thiết phải có những quy định bổ sung, hoàn thiện hơn trong việc tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, đảm bảo rằng các kẻ phạm tội không thể lợi dụng thời gian để trốn tránh trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo vệ tốt hơn quyền lợi của nạn nhân, góp phần giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự, bảo đảm công lý và tính hiệu quả trong đấu tranh chống tội phạm.
Hồng Nghị – Nhân viên Văn phòng luật sư Đồng Đội
Thông tin liên hệ:
Văn phòng luật sư Đồng Đội: P2708, Tòa nhà VP3 Bán đảo Linh Đàm, Hoàng Liệt, Hoàng Mai, Hà Nội
Điện thoại: 0936.026.559 – Email: tranxuantien1964@gmail.com
Website: https://dongdoilaw.vn
Facebook: https://www.facebook.com/dongdoilaw
Youtube: https://www.youtube.com/c/VănphòngluậtsưĐồngĐội
Tiktok: https://www.tiktok.com/@vpls_dongdoi