Những năm gần đây, tín dụng tự phát hay còn gọi là hoạt động cho vay lãi nặng càng có điều kiện phát triển tràn lan với hình thức đa dạng, tinh vi. Những cá nhân và tổ chức cho vay lãi nặng đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết cũng như sự cấp thiết của bên vay để đưa ra mức lãi suất trái quy định pháp luật. Hậu quả không chỉ tạo ra nỗi ám ảnh cho những ai chẳng may vướng vào, mà còn là nguyên nhân phát sinh những bất an, tệ nạn cho xã hội.
Theo khoản 1 Điều 468 BLDS 2015 quy định về lãi suất vay. Theo đó, các bên có thỏa thuận về lãi suất không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác, và mức lãi suất vượt quá (nếu có) sẽ không có hiệu lực. Hay trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định trên tại thời điểm trả nợ. (khoản 1 Điều 468 BLDS).
Cá nhân, tổ chức cho vay mức lãi suất vượt quá quy định thì tùy thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà có thể bị xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự, cụ thể:
*Về lý hành chính: Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với hành vi cho vay tiền có cầm cố tài sản, hoặc không cầm cố tài sản nhưng lãi suất cho vay vượt quá tỷ lệ lãi suất theo quy định của BLDS (điểm d, đ khoản 4 Điều 12 Nghị định 144/2021/NĐ-CP).
*Về xử lý hình sự: Người phạm tội có thể bị xử lý về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự quy định tại Điều 201 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Theo đó, trường hợp cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự, tùy giá trị tài sản thu lợi bất chính hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã bị kết án chưa được xóa án tích thì có thể bị phạt tiền thấp nhất là 50 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt đến 3 năm tù giam.
Mặt khác, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30 triệu đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Điều này cũng không phải là hiện tượng mới, vì muốn con nợ nhanh chóng trả nợ cho mình, mà một số chủ nợ bằng hình thức gián tiếp, trực tiếp đòi nợ theo kiểu xã hội đen, khủng bố tác động tâm lý, sức khỏe của con nợ và những người thân của con nợ.
Người phạm tội có thể bị xử lý hành chính: hành vi đăng tin sai sự thật, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của con nợ trên mạng xã hội bị xử phạt 5-10 triệu đồng đối với cá nhân (Điều 101 Nghị định 15/2020); tổ chức, thuê, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ, kích động người khác cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác bị xử phạt 2-3 triệu đồng (điểm b khoản 3 Điều 7 Nghị định 144/2021); gây mất trật tự công cộng bị xử phạt đến 8 triệu đồng (điểm b khoản 5 Điều 7 Nghị định 144/2021)… hơn nữa đối tượng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với một số tội danh:
*Hành vi thuê người đòi nợ, ép buộc bên nợ tiền phải trả tiền hoặc gán tài sản trái với ý muốn của họ… nếu đủ yếu tố cấu thành có thể bị xem xét xử lý về các tội như: Tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS), tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169), cả hai tội này đều có mức hình phạt cao nhất lên tới chung thân. Hay tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170) mức phạt có thể lên tới 20 năm tù giam.
*Nếu đối tượng xông vào nhà con nợ để đòi tiền thì có thể bị coi tội xâm phạm chỗ ở của người khác theo quy định tại Điều 158 BLHS. Người vi phạm có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm và có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 1 đến 5 năm.
*Nếu đối tượng có hành vi chửi bới con nợ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của họ có thể bị xử lý về tội Làm nhục người khác theo quy định tại Điều 155 Bộ luật hình sự, có thể bị xử phạt lên tới 5 năm tù giam.
*Hành vi tạt sơn, chất bẩn nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì có thể xem xét xử lý về tội gây rối trật tự công cộng, đối với tội này mức hình phạt lên tới 7 năm tù giam theo quy định tại Điều 318 BLHS.
*Nếu đối tượng đánh đập con nợ, người thân của con nợ thì có thể bị xử lý về tội cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự. Có thể không cần căn cứ vào mức độ thương tật của nạn nhân, người có hành vi phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến chung thân.
*Đối tượng có hành vi đạp phá, hủy hoại, phá hoại tài sản của người vay tiền thì có thể xem xét xử lý về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo quy định tại Điều 178 BLHS, mức hình phạt của tội này cao nhất 20 năm và áp dụng biện pháp bổ sung.
Còn tùy thuộc vào mức độ vi phạm của bên chủ nợ đến đâu mà áp dụng quy định pháp luật hình sự để xử lý phù hợp. Bên cạnh đó, người phạm tội còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tính mạng, sức khỏe ,tinh thần của con người, tài sản do hành vi vi phạm gây ra theo quy định của Bộ luật dân sự và Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP.
Vì nhiều lý do khác nhau nên bên đi vay chưa/ không trả nợ theo đúng thỏa thuận cho bên cho vay. Khiến bên cho vay tự ý cưỡng đoạt tài sản của con nợ để cấn trừ vào khoản vay, dù thực hiện ở phương thức gì đi chăng nữa thì cũng không nên. Bởi, đây không chỉ là hành vi trái đạo đức, pháp luật có thể bị xem xét xử lý hình sự.
Để giải quyết vấn đề này, trước tiên các bên thương lượng và thỏa thuận về việc trả nợ. Nếu không thỏa thuận được thì có thể nhờ bên thứ ba tham gia hỗ trợ, đàm phán để tiến hành thu hồi nợ. Và giải pháp sau cùng là khởi kiện dân sự ra tòa án có thẩm quyền hoặc tố giác tội phạm tới cơ quan công an có thẩm quyền để tố cáo hành vi của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định pháp luật./.
Bài viết thuộc về Văn phòng luật sư Đồng Đội
___
Thông tin liên hệ:
– Văn phòng luật sư Đồng Đội (Đoàn luật sư TP. Hà Nôi): P2708, Tòa nhà VP3 Bán đảo Linh Đàm, Hoàng Liệt, Hoàng Mai, Hà Nội
– Điện thoại: 0936.026.559 – Email: tranxuantien1964@gmail.com
– Website: https://dongdoilaw.vn
– Facebook: https://www.facebook.com/dongdoilaw
– Youtube: https://www.youtube.com/c/VănphòngluậtsưĐồngĐội
– Tiktok: https://www.tiktok.com/@vpls_dongdoi