Việt Nam là một trong số các quốc gia áp dụng hình phạt cao nhất là tử hình đối với một số tội danh nhằm trừng trị người phạm tội, loại trừ mối nguy hiểm cho xã hội, người dân và đáp ứng yêu cầu răn đe, phòng chống tội phạm. Bên cạnh khung pháp lý đối với mỗi tội phạm, pháp luật Việt Nam còn quy định một số trường hợp giảm nhẹ hình phạt, trong đó có quy định giảm án từ tử hình xuống phạt tù chung thân thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng, Nhà nước ta mở ra cho họ con đường được sống, ăn năn hối cải, phục thiện, cải tạo.
Theo khoản 1 Điều 40 Bộ luật hình sự 2015, tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật hình sự 2015 quy định. Tuy nhiên, những người bị kết án tử hình có thể không phải chịu hình phạt tử hình nếu có quyết định ân giảm. Theo đó, ân giảm án tử hình là quyết định của Chủ tịch nước nhằm giảm nhẹ hình phạt cho người phạm tội từ án tử hình xuống tù chung thân cho các đối tượng bị án.
Pháp luật quy định về việc giảm án tử hình xuống chung thân
Đối với các trường hợp quy định tại khoản 3,4 điều 40 BLHS 2015 sẽ được hưởng chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật Việt Nam, cụ thể:
Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi: Quy định này nhấn mạnh việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của trẻ em và thừa nhận vai trò quan trọng của người mẹ trong gia đình và xã hội. Việc bảo đảm sự hiện diện của người mẹ trong những năm đầu đời của trẻ là điều vô cùng quan trọng đối với sự phát triển lâu dài.
Người đủ 75 tuổi trở lên: Đây là biện pháp thể hiện tinh thần nhân đạo, đồng thời xem xét tình trạng sức khỏe và khả năng lao động của người cao tuổi. Việc giảm án này đảm bảo sự công bằng, tránh gây thêm khó khăn cho những người đã đến giai đoạn cuối của cuộc đời.
Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản hoặc tội nhận hối lộ, sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn: Trường hợp này nhấn mạnh nguyên tắc khoan hồng và khích lệ tinh thần cho họ cơ hội được sửa đổi, đóng góp và chuộc lỗi của người phạm tội
- Đã nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô và chủ động khắc phục hậu quả, hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm. Tuy nhiên, việc chủ động nộp lại 3/4 tài sản tham ô không có nghĩa 1/4 tài sản còn lại không bị thu hồi. Đây chỉ là một trong những điều kiện cần để người phạm tội được xét không thi hành án tử hình, còn 1/4 phần tài sản còn lại người phạm tội vẫn buộc phải nộp lại theo quy định. Tuy nhiên việc khắc phục phải được thực hiện thực tế, kịp thời và nhanh chóng.
- Lập công lớn, theo quy định tại khoản 4 Điều 2 Nghị quyết 01/2016/NQ-HĐTP, người phạm tội tham ô phải lập được ít nhất một trong những công lớn sau thì mới được chuyển án từ tử hình xuống chung thân gồm: Hỗ trợ cơ quan tố tụng phát hiện, điều tra, truy bắt, xử lý tội phạm không liên quan tới tội tham ô tài sản mà bản thân bị kết án, cứu người đang trong tình thế hiểm nghèo…
Người bị kết án tử hình được ân giảm: Việc ân giảm do Chủ tịch nước quyết định thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với những người phạm đội đặc biệt nghiêm trọng, mở ra cho những người này khả năng ăn năn hối cải, cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội
Lưu ý, thời hạn gửi đơn ân giảm là 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 367 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
d) Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước;
Như vậy, thời hạn để người bị kết án từ hình gửi đơn xin ân giảm là 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực thi hành. Và người có thẩm quyền xem xét và ra quyết định ân giảm hay bác đơn ân giảm là Chủ tịch nước.
Nếu thuộc trường hợp không nộp đơn xin ân giảm và cũng không được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì người bị kết án vẫn bị tử hình.
Đối với trường hợp bản án tử hình không được chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án tử hình thì Tòa án nhân dân tối cao phải thông báo cho người bị kết án biết để họ làm đơn xin ân giảm gửi cho Chủ tịch nước.
Cuối cùng là về mức giảm hình phạt tử hình. Căn cứ theo khoản 6 điều 63 BLHS 2015 quy định về giảm mức hình phạt đã tuyên với người bị kết án tử hình: “Người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 3 Điều 40 Bộ luật Hình sự 2015 thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm”. Như vậy thời gian để xét giảm lần đầu là 25 năm, tức là người bị kết án phải chấp hành tối thiểu 25 năm hình phạt tù thì mới đủ điều kiện để được xét giảm án lần đầu. Thời hạn thực tế tối thiểu: Dù được giảm án nhiều lần, tổng thời gian chấp hành hình phạt phải đảm bảo tối thiểu là 30 năm.
Một số lý do áp dụng giảm án tử hình xuống chung thân
Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất – tước đoạt mạng sống của người phạm tội. Một số ý kiến cho rằng, hình phạt tử hình được xem là điều kiện tốt để mang lại một cuộc sống có chất lượng và an ninh cho toàn xã hội, áp dụng tử hình đối với người phạm tội là Nhà nước loại bỏ hoàn toàn sự tồn tại của họ trong đời sống xã hội vì lợi ích chung của cộng đồng.
Nhưng theo như V.I. Lênin đã từng nói: “Tác dụng của hình phạt không phải ở chỗ hình phạt nặng hay nhẹ mà là ở chỗ bất cứ tội phạm nào cũng phải chịu hình phạt”. Việc ngăn ngừa các hành vi tội phạm tương tự xảy ra bằng cách áp dụng án tử hình đối với người phạm tội chưa hẳn đã đem lại hiệu quả mong muốn. Không ai biết được cảm giác trừng trị bằng hình phạt tử hình mang lại nỗi đau như thế nào trừ người đã gánh chịu nó do đó hậu quả tội phạm vẫn cứ tiếp diễn. Hình phạt tử hình là sự trừng trị kẻ phạm tội nhằm mục đích răn đe trước hết là người phạm tội sau đó là các tội phạm khác. Thế nhưng một số cá nhân đang lãnh án chung thân, đâu đó cũng cảm thấy hối cải từng ngày vì hành vi tội lỗi của mình, đôi khi lại là minh chứng sống cho những ai có ý định vi phạm pháp luật. Cái giá phải trả cho việc phạm tội là bị tước đi quyền tự do hoặc cả sinh mạng chính trị. Vậy tại sao phải kết thúc sinh mạng một con người khi có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
- Về việc áp dụng giảm án tử hình xuống chung thân:
Thứ nhất, giảm án tử hình xuống chung thân nhằm bảo vệ quyền sống và giá trị nhân đạo. Quyền sống là quyền tự nhiên là quyền cơ bản nhất. Dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền sống, việc giảm án tử hình xuống tù chung thân không chỉ góp phần bảo vệ quyền con người mà còn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc trong hệ thống pháp luật. Chính sách này không chỉ mang ý nghĩa pháp lý mà còn phản ánh bản chất tiến bộ, nhân văn của một xã hội văn minh, nơi công lý được thực thi dựa trên sự thấu hiểu, khoan dung và khả năng cải tạo con người. Đồng thời, việc thay thế án tử hình bằng tù chung thân còn tạo cơ hội cho những người phạm tội nhận thức được sai lầm, chuộc lại lỗi lầm và đóng góp tích cực cho cộng đồng. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp mà vấn đề này cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng, bảo đảm tính răn đe của pháp luật đối với các đối tượng đã và đang có suy nghĩ vi phạm pháp luật.
Thứ hai, việc không thi hành án tử hình có thể giảm hậu quả nếu như có kết luận chưa chính xác của cơ quan Tư pháp. Thực tế đã chứng minh, không phải trong mọi trường hợp tất cả bản án đều chính xác. Vậy nên khi bản án tử hình được thi hành sẽ không còn cơ hội sửa chữa vì nạn nhân đã mất đi sự sống. Trong trường hợp xảy ra sai lầm tư pháp, việc thi hành tử hình sẽ không thể đảo ngược. Giảm án tử hình xuống chung thân là biện pháp giảm thiểu rủi ro gây ra mất mát vĩnh viễn. Giảm án còn có thể tránh trường hợp oan sai, nhiều vụ án oan đã được phát hiện sau khi thi hành án tử hình, gây nên làn sóng phản đối trong công chúng.
Ví dụ điển hình là trường hợp của ông Hàn Đức Long – người 4 lần mang án tử vào chiều ngày 25/04/2017 đã được tòa án xác định không phải là thủ phạm, chấm dứt 12 năm vướng lao lý oan. Do tại các phiên tòa này ông Long đều kêu oan và năm 2009, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao xử giám đốc thẩm tuyên hủy hai bản án yêu cầu điều tra lại và nhận thấy có mâu thuẫn trong kết luận điều tra qua đó nếu ông Long không kêu oan, nếu án tử hình được thi hành thì có lẽ ông đã bị tước đi quyền sống của mình trên tội danh mà hoàn toàn không phải do ông phạm phải.
Thứ ba, đây là cơ hội cho những người phạm tội được duy trì sự sống, từ đó có thời gian suy ngẫm sâu sắc về những hành vi sai trái của mình, đồng thời nỗ lực chuộc lại lỗi lầm. Hình phạt này cũng khuyến khích họ cải thiện bản thân, học hỏi kỹ năng mới và trong một số trường hợp họ có thể từng bước tái hòa nhập cộng đồng khi được xem xét nếu đủ điều kiện.
Về trường hợp của tử tù Đặng Văn Hiến đã bật khóc khi được ân giảm xuống án chung thân, lãnh đạo Trại giam Công an tỉnh Đắk Nông nhấn mạnh, trong quá trình chấp hành án phạm nhân Hiến đã nhận thức rõ hành vi vi phạm của mình, ăn năn, hối cải và chấp hành các nội quy, quy định của trại giam. Chủ tịch nước ân giảm án tử hình là chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng và Nhà nước dành cho Đặng Văn Hiến. Đây từng là vụ án nhận được sự quan tâm của dư luận vì tính chất, mức độ của sự việc. Nghe TAND tỉnh Đắk Nông công bố quyết định Chủ tịch nước ân giảm án tử hình xuống chung thân, Đặng Văn Hiến và người thân bật khóc vì có cơ hội được sống.
Như đã nói việc áp dụng chính sách giảm án tử hình xuống tù chung thân là minh chứng rõ nét cho tinh thần nhân đạo và tiến bộ của pháp luật Việt Nam. Chính sách này không chỉ đảm bảo quyền sống – một quyền cơ bản và thiêng liêng của con người, mà còn góp phần giảm thiểu nguy cơ xảy ra những sai sót không thể khắc phục trong hoạt động tư pháp. Đồng thời, việc thay thế án tử hình bằng tù chung thân mang đến cơ hội để người phạm tội nhận thức sâu sắc về sai lầm, ăn năn hối cải và nỗ lực chuộc lại lỗi lầm. Đây không chỉ là một biện pháp pháp lý mà còn thể hiện bản chất công bằng, văn minh của xã hội, nơi công lý được thực thi dựa trên sự thấu hiểu, khoan dung và hy vọng về khả năng cải tạo của mỗi con người.
Ngô Chi – Thực tập sinh Văn phòng Luật sư Đồng Đội
Thông tin liên hệ:
Văn phòng luật sư Đồng Đội: P2708, Tòa nhà VP3 Bán đảo Linh Đàm, Hoàng Liệt, Hoàng Mai, Hà Nội
Điện thoại: 0936.026.559 – Email: tranxuantien1964@gmail.com
Website: https://dongdoilaw.vn
Facebook: https://www.facebook.com/dongdoilaw
Youtube: https://www.youtube.com/c/VănphòngluậtsưĐồngĐội
Tiktok: https://www.tiktok.com/@vpls_dongdoi