Hơn 10 năm hành nghề Luật sư, tôi đã rất nhiều lần đồng hành cùng các khách hàng của mình trong suốt quá trình khởi kiện các cơ quan, tổ chức ban hành ra những quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Án hành chính với tôi tuy khó mà hay, tuy khó mà rèn luyện, thử thách được bản lĩnh của người Luật sư.
Dưới đây là một án hành chính mà Văn phòng luật sư Đồng Đội đang tham gia giải quyết có đối tượng khởi kiện là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đăng ký biến động quyền sử dụng đất.
Ông Nguyễn Văn T và bà Đỗ Thị T là vợ chồng, có hai con chung là Nguyễn Mạnh T và Nguyễn Anh T. Năm 2001, gia đình ông được UBND tỉnh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho mảnh đất có nguồn gốc do bà Phạm Thị C (mẹ ruột ông Nguyễn Văn T) cho gia đình 9 cây vàng ta và 2 triệu tiền mặt để mua đất làm nhà ở. GCNQSDĐ này được cấp cho Hộ gia đình vào 20/5/2001, người đứng tên là ông Nguyễn Văn T – đại diện hộ. Theo đó, quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản được ghi trên giấy chứng nhận thuộc về tất cả những người có tên trong sổ hộ khẩu gia đình (không phân biệt thành niên hay chưa thành niên). Tài sản gắn liền trên đất có một nhà cấp 4 lợp proximăng, tường làm bằng gạch chỉ, nền lát gạch hoa có diện tích sử dụng đất khoảng 80m2 và công trình phụ trợ.
Năm 2010, hai ông bà được Tòa án giải quyết cho thuận tình ly hôn, vấn đề tài sản chung chưa phân chia. Sau ly hôn, bà Đỗ Thị T vay của bà Vũ Thị D một số tiền nhỏ nhưng không trả được nên đã bị khởi kiện ra Tòa án. Ngày 25/3/2016, Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) huyện BQ ra quyết định Thi hành án về việc cho thi hành án với bà Đỗ Thị T phải thanh toán số tiền 27.323.500 đồng và lãi suất cho bà Vũ Thị D. Ngày 25/10/2016 Chi cục THADS huyện BQ đã ra Quyết định cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất (QSDĐ) và tài sản gắn liền trên đất là tài sản trên đất của hộ gia đình ông Nguyễn Văn T.
Đến ngày 13/3/2019, ông Nguyễn Văn T phải chuyển giao GCNQSDĐ đứng tên hộ gia đình ông cho Chi cục THADS huyện BQ.
Vào ngày 03/04/2018, tài sản chung của hai ông bà đã bị bán đấu giá cho ông Nguyễn Đức K với giá rẻ, và sau đó đã được Sở TN&MT tỉnh HG cấp GCNQSDĐ vào ngày 25/6/2019.
Vi phạm nghiêm trọng của Cơ quan Thi hành án
Nhận được sự tin tưởng của khách hàng, các Luật sư Văn phòng luật sư Đồng Đội đã tham gia vụ án với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Văn T. Qua quá trình tiếp xúc, nghiên cứu hồ sơ, tài liệu và làm việc với các cơ quan hữu quan, Luật sư nhận thấy:
– Trong quá trình kê biên, bán đấu giá tài sản, Chấp hành viên và Chi cục trưởng Chi cục THADS huyện BQ đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng, có biểu hiện thông đồng với các đối tượng mua đấu giá tài sản thi hành án để trục lợi. Thực tế bà T có nhiều tài sản đủ để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án riêng (như xe máy, đất đai khác,…) nhưng cơ quan này đã không xác minh và kê biên, mà dùng tài sản của hộ gia đình để kê biên thực hiện nghĩa vụ cho bà T và bán đấu giá tài sản đó với giá rẻ, không tương xứng với giá thực tế của mảnh đất và nghĩa vụ thi hành án của bà T.
– Cơ quan thi hành án cũng đã không đưa 2 người con chung của hai ông bà vào diện người có quyền, nghĩa vụ liên quan để khởi kiện phân chia tài sản chung, không có bất kỳ thông báo về thi hành án đối với người có quyền đối với tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án Dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) dù cho hai người con trai trong quá trình sinh sống đã có nhiều đóng góp trong việc tạo lập, duy trì, giữ gìn và trông coi tài sản chung. Cụ thể, năm 2007, hai anh đã cùng nhau góp số tiền kiếm được từ việc nhặt chè thuê cho bà Nguyễn Thị C để tu sửa nhà. Hơn nữa, nếu không có việc trông coi, bảo quản này thì tài sản không được bảo vệ, có thể bị giảm sút giá trị. Do đó, việc Chi cục THADS huyện BQ đã bỏ qua công sức của hai anh, không đưa các anh vào diện người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của hai anh và gia đình.
Việc cơ quan thi hành án đã kê biên cả phần tài sản của người không có nghĩa vụ thi hành án là vi phạm nghiêm trọng, đã tước bỏ quyền sở hữu đối với tài sản chung, quyền được ưu tiên mua tài sản chung và những quyền khác được quy định tại Luật Thi hành án Dân sự. .
– Thêm vào đó, mặc dù yêu cầu khởi kiện phân chia tài sản chung hộ gia đình của anh Nguyễn Mạnh T (một người con của hai ông bà) đã được TAND huyện BQ thụ lý nhưng do quá trình Tòa án giải quyết chậm trễ, UBND huyện BG đã tự ý đăng ký biến động QSDĐ của gia đình cho ông Nguyễn Văn S. Ngày 20/5/2020, ông S chuyển nhượng QSDĐ và tài sản gắn liền trên đất cho ông Nguyễn Quý N.
Có thể thấy, việc cấp GCNQSDĐ này là hoàn toàn trái pháp luật bởi theo Điều 74 Luật Thi hành án dân sự 2008, việc cưỡng chế đối với tài sản chung gia đình phải đảm bảo tài sản chung phải được Tòa án giải quyết trước khi xử lý để thi hành án và chỉ khi Tòa án ra bản án đã có hiệu lực xác định được phần sở hữu của các thành viên trong hộ gia đình, khi đó Chấp hành viên mới tiến hành xử lý tài sản. Tuy nhiên Chấp hành viên và Chi cục THADS huyện BQ đã không thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục trên, tự ý kê biên quyền sử dụng đất mà không thông báo cho gia đình ông Nguyễn Văn T tiến hành phân chia, tự ý giao GCNQSDĐ của gia đình ông Nguyễn Văn T cho ông K, ông S để làm thủ tục sang tên, không đảm bảo điều kiện để được đăng ký biến động đất đai theo điểm k khoản 4 Điều 95 Luật Đất đai 2013 (“Việc đăng ký biến động được thực hiện đối với trường hợp đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà có quyết định hoặc Bản án của Tòa án nhân dân.”)
Sự thiếu trách nhiệm, có biểu hiện bỏ lọt tội phạm của Công an và Viện kiểm sát
Bên cạnh dấu hiệu vi phạm pháp luật của cơ quan thi hành án, Văn phòng luật sư Đồng Đội nhận thấy trong vụ việc này cơ quan CSĐT – CA huyện BQ, VKSND huyện BQ, tỉnh HG đã không ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với ông Nguyễn Văn S và ông Nguyễn Đức K mặc dù đủ căn cứ theo quy định pháp luật.
Bị nhóm đối tượng Nguyễn Đức K và Nguyễn Văn S sử dụng vũ lực để lấy tài sản, đuổi hai con trai ra khỏi nhà, ông Nguyễn Văn T đã làm đơn tố giác tội phạm, đề nghị khởi tố vụ án hình sự và được Cơ quan công an ra Thông báo tiếp nhận, nhưng sau một năm tiếp nhận và xử lý tố giác tội phạm, Phó Thủ trưởng CQCSĐT đã ra Thông báo quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Không đồng ý với kết luận này, ông T đã khiếu nại đến Thủ trưởng CQCSĐT và nhận được Quyết định có nội dung bác toàn bộ khiếu nại từ ông Nguyễn Trọng T vào ngày 26/04/2019. Không đồng ý, ông Nguyễn Văn T tiếp tục khiếu nại đến Viện trưởng VKSND huyện BQ. Đến ngày 02/07/2020, ông La Ngọc T đã ra Quyết định giải quyết khiếu nại với nội dung giữ nguyên việc không khởi tố vụ án.
Sự thiếu trách nhiệm, bỏ lọt tội phạm này đã cấu thành tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp theo Điều 369 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) với các vi phạm cụ thể sau đây:
– Thứ nhất, việc giải quyết nguồn tin tố giác tội phạm vi phạm nghiêm trọng thời hạn theo quy định pháp luật
Ngày 10/04/2019, ngay sau khi nhóm đối tượng do ông K, ông S chỉ đạo đến đập phá, cướp tài sản, hành hung các con ông Nguyễn Văn T, Công an thị trấn VQ, Công an huyện BQ do Thượng tá Hoàng Thiết Th chỉ huy đã có mặt tại hiện trường, trực tiếp phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm. Theo Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm thì “quyết định việc khởi tố vụ án theo thẩm quyền hoặc chuyển cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết”, tuy nhiên, sau 9 ngày tạm giữ nhóm đối tượng đã được thả ra mà không có kết luận nào từ Cơ quan điều tra.
Ngày 10/08/2019, Thượng tá Th ra Thông báo quyết định tạm đình chỉ việc xác minh tố giác tội phạm. Nếu thực hiện đúng quy định của Điều 147 BLTTHS 2015 được hướng dẫn bởi Điều 9 và Điều 11 Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC, thì sau khi nhận tin tố giác tội phạm trong vòng 20 ngày CQCSĐT phải ra các quyết định theo quy định của pháp luật. Trường hợp vụ việc có tính chất phức tạp có thể gia hạn thời hạn giải quyết 02 lần, mỗi lần không quá 02 tháng và phải có Quyết định của CQCSĐT và Viện kiểm sát thông báo cho đương sự. Tuy nhiên sau 4 tháng ông Nguyễn Văn T mới nhận được quyết định tạm đình chỉ của Cơ quan điều tra mà không nhận được Quyết định gia hạn nào từ CQCSĐT hay Viện kiểm sát.
Trong quá trình tiếp nhận tố giác tội phạm, Thượng tá Th cũng chỉ đạo tiến hành hoạt động trưng cầu giám định thương tích của anh T (con trai ông Nguyễn Văn T) và định giá tài sản rất chậm trễ. Việc tiến hành các hoạt động xác minh là nhiệm vụ, quyền hạn của Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra nhưng ông Th đã không chủ động thực hiện, đến khi người dân có đơn yêu cầu định giá tài sản mới cho tiến hành.
Vụ việc đã bị tạm đình chỉ 5 tháng một cách tùy tiện, sau một năm tiếp nhận tố giác mới ra kết luận không khởi tố vụ án hình sự. Luật sư nhận thấy Thượng tá Th phải có trách nhiệm trong việc để vụ việc bị kéo dài, tiến hành hoạt động xác minh chậm trễ và ra kết luận vụ việc không chính xác, có dấu hiệu bao che cho sai phạm của các đối tượng.
– Thứ hai, hành vi của nhóm côn đồ đã có đủ dấu hiệu phạm các tội “Xâm phạm trái phép chỗ ở của người khác”, “Cưỡng đoạt tài sản” hoặc “Cướp tài sản” nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự là trái pháp luật
Nhóm đối tượng Nguyễn Đức K, Nguyễn Văn S có hành vi xâm phạm sức khỏe, tài sản của gia đình ông Nguyễn Văn T đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm bởi các lý do:
+ Việc các đối tượng tự ý phá khóa nhà, đuổi người trái pháp luật ra khỏi nơi cư trú (dùng vũ lực để buộc hai người phải rời khỏi chỗ ở của mình) là hành vi khách quan có đầy đủ dấu hiệu phạm tội theo điểm b, d Điều 158. Hơn nữa trong clip mà camera ghi nhận lại, trong biên bản sự việc của Công an thị trấn VQ tại các Quyết định giải quyết khiếu nại, Công an huyện BQ và Viện kiểm sát nhân dân cũng nêu rõ nhóm đối tượng tự cưa khóa để xâm nhập vào nhà ông Nguyễn Văn T.
+ Theo Điều 168 BLHS và Điều 170 BLHS thì khi có hành vi “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được” hoặc hành vi “đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản” thì đã có đủ cơ sở cấu thành tội phạm đối với hai tội danh này. Hành vi la hét, quát thảo, gây thương tích cho anh Nguyễn Mạnh T nhằm mục đích lấy tài sản trong nhà đã hoàn thành xong hành vi phạm tội.
Thậm chí, các đối tượng đã lấy được tài sản ra khỏi vị trí ban đầu và mang tài sản đó lên ô tô rời đi ngay sau đó. Cơ quan CSĐT cho rằng các đối tượng chỉ dịch chuyển ra khỏi vị trí ban đầu mà không có nội dung mang lên xe ô tô bỏ đi là hoàn toàn sai sự thật. Mục đích chiếm đoạt tài sản và hậu quả xảy ra đã rất rõ ràng nhưng Cơ quan CSĐT đã căn cứ vào quy định nào để cho rằng hành vi của các đối tượng không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản nên không cấu thành tội phạm. Nếu không nhằm mục đích chiếm đoạt thì nhằm mục đích nào, Cơ quan CSĐT cần phải xác định một cách rõ ràng. Không dừng lại ở đó, các đối tượng còn chiếm đoạt của gia đình ông Nguyễn Văn T hơn 300 triệu đồng, nhưng quá trình giải quyết tố giác, Cơ quan CSĐT không làm rõ được vấn đề này khiến gia đình ông Nguyễn Văn T vô cùng bức xúc.
+ Anh T (con trai ông Nguyễn Văn T) bị đa chấn thương phần mềm: mắt trái giác mạc phù nhẹ; tai trái màng nhĩ có lỗ thủng.phải đi điều trị tại Bệnh viện đa khoa khu vực BQ đến 07 ngày, nhưng kết luận giám định lần 1 xác định tỷ lệ thương thật là 0% rất vô lý, thiếu khách quan, có nhiều biểu hiện khuất tất, bỏ lọt tội phạm.
Do đó, gia đình đã làm đơn đề nghị giám định lại nhưng Cơ quan CSĐT không tích cực thực hiện việc này để đảm bảo vụ việc được giải quyết minh bạch mà đổ lỗi cho anh T không hợp tác. Trong khi trách nhiệm làm sáng tỏ vụ việc, khởi tố bị can khi đủ căn cứ pháp luật là trách nhiệm của Cơ quan CSĐT, không thể đổ lỗi của người dân. Tuy nhiên, vì hành vi của nhóm đối tượng có tính chất côn đồ, phạm tội có tổ chức nên tỷ lệ thương tật dưới 11% cũng đã có đủ cơ sở để khởi tố về hành vi cố ý gây thương tích.
Sau khi các cơ quan tố tụng huyện BQ lần lượt bác bỏ nội dung tố giác của ông T, chúng tôi đã tư vấn cho ông T gửi đơn tố cáo hành vi không khởi tố người có tội của cơ quan điều tra đến Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Ngày 06/7/2021, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân tối cao lại chuyển đơn của ông T về Viện kiểm sát nhân dân tỉnh HG để giải quyết. Chúng tôi cho rằng việc chuyển đơn là không thỏa đáng, không đứng chức năng, nhiệm của của cơ quan này là điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp. Chúng tôi đã tư vấn cho ông T tiếp tục khiếu nại văn bản trên và yêu cầu Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thụ lý đơn tố cáo, rút hồ sơ vụ việc lên để xem xét theo quy định.
Để đòi lại quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân và gia đình, với sự nhất trí của bà Đỗ Thị T (vợ cũ) cùng hai người con trai, ông Nguyễn Văn T đã tiến hành khởi kiện Sở TN&MT tỉnh HG và Chi nhánh VPĐKĐĐ huyện BQ về việc yêu cầu hủy GCNQSDĐ do Sở TN&MT tỉnh HG cấp cho ông Nguyễn Đức K ngày 25/6/2019 và Đăng ký biến động QSDĐ tại VPCC BQ về việc chuyển nhượng QSDĐ cho ông S do VPĐKĐĐ tỉnh HG chi nhánh huyện BQ thực hiện.
Hai người bị kiện trong vụ án này là Sở TN&MT tỉnh HG, VPĐKĐĐ chi nhánh huyện BQ đều không nhất trí yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T và cho rằng họ đã làm đúng quy trình tiếp nhận, xử lý hồ sơ, thực hiện đúng trình tự, thủ tục ký GCNQSDĐ và đăng ký biến động QSDĐ.
Ngày 17/6/2021, TAND tỉnh HG đã tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án về việc Yêu cầu hủy GCNQSDĐ và yêu cầu hủy đăng ký biến động QSDĐ do ông Nguyễn Văn T khởi kiện, với nội dung không đồng ý với những yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T. Hiện nay, vụ án đang trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm. Tôi cùng những “đồng đội” của mình sẽ tiếp tục đồng hành, hỗ trợ, động viên, giúp đỡ khách hàng để đòi lại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, để xử lý nghiêm những cá nhân, cơ quan thực hiện hành vi sai phạm. Dù biết chặng đường sắp tới còn rất nhiều khó khăn nhưng chúng tôi sẽ đồng hành cùng gia đình ông T đi đến cùng để bảo vệ quyền lợi cho gia đình.