Câu hỏi: Tôi là nguyên đơn trong vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế”, xét xử sơ thẩm tuyên án mài không triệu tập những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có trong vụ án. Bản án đã có hiệu lực từ tháng 12/2019, tháng 1/2020 tôi đã làm đơn đề nghị xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm nhưng Tòa án nhân dân cấp cao đã gửi thông báo không có đủ căn cứ kháng nghị. Đến tận bây giờ (năm 2023) tôi vẫn thấy kết luận của Tòa án gây thiệt hại đến quyền, lợi hợp pháp của tôi và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác không được đưa vào vụ án. Vậy tôi có thể tiếp tục làm đơn đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm được nữa không?
Trả lời về vấn đề này, Luật sư tư vấn như sau:
Giám đốc thẩm là việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị giám đốc thẩm khi có căn cứ quy định tại Điều 326 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (Sau đây viết tắt là BLTTDS 2015) (theo quy định tại Điều 325 BLTTDS 2015).
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 326 BLTTDS 2015 thì bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau:
“a) Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự;
b) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;
c) Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.”
Về thời hạn đương sự đề nghị xem xét bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 327 BLTTDS 2015, trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đó thì đương sự có quyền đề nghị bằng văn bản với người có thẩm quyền kháng nghị quy định tại Điều 331 của Bộ luật này để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Vậy nên, trong thời hạn 01 năm kể từ ngày 12/2019 bản án về “Tranh chấp di sản thừa kế” có hiệu lực, bạn có quyền đề nghị bằng văn bản với người có thẩm quyền kháng nghị để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Theo đó, người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm bao gồm: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao theo quy định tại Điều 331 BLTTDS 2015.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 334 BLTTDS 2015 quy định: “Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có quyền kháng nghị trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật”
Trong trường hợp của bạn, kể từ ngày bản án có hiệu lực đến nay đã hết thời hạn kháng nghị theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, nếu bạn tiếp tục có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm và bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 326 của Bộ luật này, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của cộng đồng, lợi ích của Nhà nước thì thời hạn kháng nghị được kéo dài thêm 02 năm, kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại khoản 2 điều 334 BLTTDS 2015.
Vì vậy, trường trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị và bạn vẫn tiếp tục có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm và bản án có hiệu lực xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và, lợi ích hợp pháp của bạn thì kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị (12/2022), thời hạn kháng nghị sẽ được kéo dài thêm 02 năm.
Người viết: Lê Thị Lan Anh – Thực tập sinh tại VPLS Đồng Đội
Thông tin liên hệ: