Xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ
Trong các hợp đồng vay giữa các ngân hàng và khách vay đều có các điều khoản cam kết xử lý tài sản bảo đảm. Khi quá thời hạn trả nợ, các tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp cơ cấu nợ, rồi thu hồi nợ nhẹ nhàng…khi không có kết quả phải tính đến chuyện xử lý tài sản thế chấp, bảo lãnh. Đây là một công việc tưởng đơn giản nhưng thực tế không dễ chút nào vì nhiều lý do nội tại của các tổ chức tín dụng và các qui định của pháp luật điều chỉnh có nhiều điểm không cụ thể. Đặc biệt phải trực tiếp đến vấn đề nhạy cảm là quyền tài sản và quyền nhân thân bị “đụng chạm”.
Trong các phương thức xử lý tài sản bảo đảm (trực tiếp bán tài sản bảo đảm cho người mua) thì phương thức bán tài sản (trực tiếp hoặc ủy quyền) vẫn đang được áp dụng phổ biến ở các ngân hàng. Thực tế, khi triển khai hầu hết các ngân hàng đã không cụ thể hóa những phương thức nói trên mà dường như đưa nguyên những phương thức xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của Nghị định số 163 vào hợp đồng bảo đảm tiền vay.
Do vậy, khi xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ, ngân hàng đã không xử lý được tài sản theo các phương thức thỏa thuận hoặc xử lý được nhưng phải đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hỗ trợ, giúp đỡ. Một số ít khách hàng đồng ý bàn giao tài sản bảo đảm cho ngân hàng xử lý với điều kiện trước khi bán, chuyển nhượng tài sản bảo đảm cho người mua, ngân hàng phải mua cho họ một chỗ ở mới để sinh sống và tập kết tài sản.
Ngay cả những trường hợp ngân hàng khởi kiện khách hàng vay, người bảo lãnh và thắng kiện, cơ quan thi hành án cũng yêu cầu ngân hàng (người được thi hành án) và khách hàng vay, người bảo lãnh (người phải thi hành án) phải thỏa thuận với nhau về việc mua chỗ ở mới. Chi phí để mua chỗ ở mới cho khách hàng vay hoặc người bảo lãnh được xác định trên cơ sở điều kiện thực tế của từng địa phương và điều kiện sống tối thiểu cho những người đang sinh sống trong ngôi nhà thế chấp bị cưỡng chế. Bởi vì chấp hành viên cho rằng cơ quan thi hành án không thể cưỡng chế được những người đang sinh sống ra khỏi ngôi nhà thế chấp, bảo lãnh vì Ðiều 58 – Hiến pháp năm 1992 của nước ta đã quy định “công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất…”. Mặt khác, cơ quan thi hành án cần có một chỗ ở tối thiểu tập kết tài sản để tổ chức cưỡng chế thi hành án.
Trước yêu cầu trên của khách hàng vay, người bảo lãnh và cơ quan thi hành án, nhiều ngân hàng đã rất thụ động và lúng túng vì những lý do dưới đây:
- Ngân hàng là doanh nghiệp thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Cho nên, ngân hàng không có thẩm quyền kê biên và cưỡng chế khách hàng vay, bên bảo lãnh khi những người này chây ỳ, cố tình không giao tài sản thế chấp, bảo lãnh để xử lý thu hồi nợ. Chính vì vậy, ngân hàng phải đề nghị cơ quan pháp luật hỗ trợ, giúp đỡ để cưỡng chế những người liên quan để xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ.
- Dự tính số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm không đủ để thu hồi nợ nhưng ngân hàng lại phải trích một phần từ số tiền đó để mua chỗ ở mới cho khách hàng vay, người bảo lãnh. Mặt khác, khách hàng vay lại không có khả năng thanh toán và không còn nguồn vốn, tài sản khác để trả nợ cho ngân hàng. Do đó, tài sản bảo đảm có thể được coi là nguồn duy nhất để ngân hàng thu hồi nợ đối với khách hàng. Vì vậy, phải trừ từ tiền bán tài sản bảo đảm để mua chỗ ở mới cho khách hàng vay, người bảo lãnh, thì ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh, nhất là khi không thu hồi được vốn cho vay nhưng ngân hàng vẫn phải thanh toán tiền gốc và lãi đối với số tiền gửi của nhân dân mà ngân hàng đã huy động để cho vay.
- Để những người đang sinh sống ra khỏi ngôi nhà thế chấp, bảo lãnh và bàn giao cho ngân hàng xử lý theo phương thức thỏa thuận trong hợp đồng, thì trước khi xử lý tài sản bảo đảm, ngân hàng phải mua chỗ ở mới cho khách hàng vay, người bảo lãnh. Trong khi đó pháp luật hiện hành lại chưa hướng dẫn trích từ nguồn vốn nào và xử lý phần chênh lệch thiếu ra sao khi tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm nhỏ hơn số tiền đã được trích để mua nhà ở cho khách hàng vay, người bảo lãnh. Vì vậy, ngân hàng chưa có cơ sở pháp lý rõ ràng để thực hiện theo yêu cầu nói trên của khách hàng vay, người bảo lãnh hoặc chấp hành viên.
- Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chưa hướng dẫn ngân hàng cách thức xác định số tiền được trích để mua chỗ ở mới cho khách hàng vay, người bảo lãnh. Cho nên, ngân hàng và khách hàng vay, người bảo lãnh rất khó thỏa thuận được với nhau về số tiền để mua chỗ ở mới. Ngay cả trường hợp cơ quan thi hành án yêu cầu ngân hàng mua chỗ ở cho người phải thi hành án để cưỡng chế và bốc dỡ, di dời tài sản, thì cơ quan thi hành án cũng không xác định được chi phí cụ thể để mua chỗ ở mới cho người phải thi hành án. Trong văn bản gửi ngân hàng, cơ quan thi hành án chỉ yêu cầu ngân hàng mua chỗ ở mới bảo đảm diện tích ở tối thiểu cho người phải thi hành án cùng các thân nhân đang sinh sống trong ngôi nhà bị cưỡng chế. Giá mua cụ thể sẽ do các bên thỏa thuận phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương. Tuy nhiên, yêu cầu này của chấp hành viên là khó thực hiện được trên thực tế vì nhu cầu chỗ ở của khách hàng vay, người bảo lãnh là rất lớn, trong khi số tiền được trích để mua nhà ở mới cho người phải thi hành án lại có hạn. Nếu ngân hàng đã chủ động mua chỗ ở mới để làm địa điểm cho cơ quan thi hành án cưỡng chế và chuyển tài sản nhưng người phải thi hành án không đồng ý và khởi kiện, thì ngân hàng chưa thể xử lý được tài sản để thu nợ vì Tòa án có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “kê biên tài sản”. Ngược lại, ngân hàng mua được chỗ ở mới và được người phải thi hành án đồng ý nhưng tiền mua tài sản lại gần bằng với số tiền dự kiến thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm (chẳng hạn tiền bán tài sản bảo đảm là 80 triệu đồng, tiền mua ngôi nhà mới là 60 triệu đồng), thì nợ ngân hàng thu được không đáng kể. Chính vì vậy, việc trích tiền bán tài sản bảo đảm để mua chỗ ở mới cho khách hàng vay, người bảo lãnh không chỉ làm giảm công nợ thu được của ngân hàng mà còn làm cho ngân hàng vốn đã gặp khó khăn trong việc thu hồi nợ quá hạn lại càng khó khăn hơn./
Tác giả bài viết: Trần Xuân Tiền
Nguồn tin: Văn phòng luật sư Đồng Đội